PHẦN I: TÊN GỌI CỦA DI TÍCH
Di tích có tên gọi là đình làng Côi Trì, vì đình được xây dựng và phát triển ở địa phận làng Côi Trì, tên gọi này được gọi theo tên địa danh cổ của làng (làng Côi Trì[1] xưa).
Ngoài ra, di tích còn có tên gọi khác là đình Tây vì đình nằm ở phía Tây của làng Côi Trì.
Căn cứ Văn bản số 930/UBND-VHTT ngày 13 tháng 8 năm 2019 của UBND huyện Yên Mô về việc đề nghị xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh đình làng Côi Trì, xã Yên Mỹ và ý kiến của địa phương, thống nhất tên gọi cho di tích là đình làng Côi Trì, xã Yên Mỹ, huyện Yên Mô.
PHẦN II: ĐỊA ĐIỂM PHÂN BỐ, ĐƯỜNG ĐI ĐẾN DI TÍCH
1. Địa điểm phân bố
Di tích hiện nay nằm trên địa bàn xóm 3 (thuộc làng Côi Trì xưa), xã Yên Mỹ, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình.
Xã Yên Mỹ ngày nay nằm ở phía Đông Nam huyện Yên Mô, phía Bắc giáp xã Yên Hưng, phía Tây giáp xã Yên Thành, phía Nam giáp xã Yên Mạc, phía Đông giáp xã Yên Phong, Yên Từ, Yên Nhân.
Theo cuốn “Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ 19”, vùng đất có di tích thuộc xã Côi Trì, huyện Yên Mô, đạo Thanh Bình. Năm 1822, đổi đạo Thanh Bình thành đạo Ninh Bình. Năm 1829, đổi đạo Ninh Bình thành trấn Ninh Bình. Năm 1831, đổi trấn Ninh Bình thành tỉnh Ninh Bình. Di tích thuộc xã Côi Trì, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình.
Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, Côi Trì thuộc xã Yên Mạc, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình.
Năm 1956, chia tách 8 xã thành lập 15 xã mới, di tích thuộc xã Yên Mỹ, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình.
Năm 1976, hợp nhất 2 tỉnh Ninh Bình và tỉnh Nam Hà thành một tỉnh lấy tên là Hà Nam Ninh. Năm 1977, 9 xã phía bắc huyện Yên Khánh hợp nhất với huyện Yên Mô và thị trấn Tam Điệp thành lập huyện Tam Điệp[2].. Di tích thuộc xã Yên Mỹ, huyện Tam Điệp, tỉnh Hà Nam Ninh.
Tháng 4 năm 1992, tỉnh Ninh Bình được tái lập. Năm 1994, tái lập huyện Yên Khánh, đổi tên huyện Tam Điệp thành huyện Yên Mô như trước đây. Từ đó đến nay, di tích thuộc xã Yên Mỹ, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình.
Hiện nay, làng Côi Trì có 10 xóm, xã Yên Mỹ gồm 15 xóm. Di tích thuộc xóm 3, xã Yên Mỹ, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình.
2. Đường đi đến di tích.
Từ trung tâm thành phố Ninh Bình, theo quốc lộ 1 (hướng đi Thanh Hóa) khoảng 9km, đến ngã ba Thanh Sơn (thuộc địa phận xã Mai Sơn, huyện Yên Mô), rẽ trái theo quốc lộ 12B (đường 59 cũ), đi khoảng 9km đến ngã ba Lồng, rẽ phải khoảng 1,5km đến địa phận xã Yên Mỹ, rẽ phải vào đường 480D (quốc lộ 21B) khoảng 1km, sau đó rẽ trái 0,5km là đến di tích.
PHẦN III. PHÂN LOẠI DI TÍCH
Đình làng Côi Trì là nơi thờ cúng, tưởng niệm thần Câu Mang, nhân dân tôn thờ ông như vị thành hoàng làng, có công phù giúp nhân dân an cư lạc nghiệp. Đồng thời, di tích là nơi thờ cúng, tưởng niệm tám vị hậu thần và tám vị tiên sinh có công với vùng đất. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, di tích là một trong những căn cứ bí mật của cách mạng, nơi cất giữ vũ khí và lương thực phục vụ cho cách mạng. Tại di tích còn lưu giữ được những tư liệu, hiện vật quý như: nhang án, bài vị, bát hương, bia đá, đá chiếm xạ…đồ thờ tự bằng gỗ, sứ, đá có giá trị về mặt lịch sử và văn hóa.
Căn cứ vào kết quả khảo sát, nghiên cứu, đánh giá giá trị của di tích; căn cứ các tiêu chí xếp hạng di tích quy định tại Điều 11 Nghị định 98/2010/NĐ-CP ngày 21/9/2010 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Di sản văn hóa và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa, xác định đình làng Côi Trì thuộc loại hình di tích lịch sử văn hóa.
PHẦN IV: SỰ KIỆN, NHÂN VẬT LỊCH SỬ LIÊN QUAN ĐẾN DI TÍCH
A. Nhân vật thờ cúng chính tại đình: Câu Mang Đại Vương, bát vị tiên sinh, bát vị hậu thần.
1. Thần Câu Mang: Trong bài vị có ghi Câu Mang Hoàng đế Dực bảo Trung Hưng Hộ quốc An dân Thượng Thượng Thượng tôn thần.
Căn cứ theo lý lịch di tích đền Nội[3], thị trấn Yên Ninh, huyện Yên Khánh, cho thấy thần Câu Mang là nhân vật huyền thoại. Trước đây ở xã Yên Mạc (huyện Yên Mô) có gia đình người nông dân sống rất hòa thuận. Hàng ngày họ phải ra sông mò cua bắt ốc, cất vó bè làm kế sinh nhai. Thấy gia đình người nông dân chăm chỉ làm ăn nhưng cuộc sống vẫn nghèo khó, một thiên thần đã giáng thế vào nhà ông.
Một lần, khi ông cất vó bè ra bến sông nhấc vó lên thì trong vó không có một con tôm hay con cá. Đang buồn thì ông thấy có khúc gỗ thuận theo dòng nước chảy trôi vào vó. Ông dùng hết sức đẩy khúc gỗ ra, nhưng càng đẩy ra càng thấy trôi vào. Thấy lạ, ông lẩm nhẩm khấn rằng: “xin ngài linh thiêng phù hộ độ trì cho con cất được nhiều tôm cá. Nếu được như lời cầu khẩn thì con sẽ rước ngài về phụng sự”. Vừa dứt lời, từ bốn phía cá tôm theo nhau vào vó, ông bắt không xuể. Thấy linh ứng, ông vớt khúc gỗ về thờ. Cũng trong thời gian này, trong làng gặp rất nhiều khó khăn hoạn nạn, hao người tốn của, lòng người hoang mang lo lắng. Biết thần linh thiêng nên dân làng đã lập nơi thờ thần. Nhờ có sự phù hộ của thần mà địa phương thịnh người, vượng của, mỹ tục thuần phong.
Một hôm, có người nông dân ở Yên Ninh đi bán dưa ở xã Yên Mạc, bán cả ngày nhưng không có ai mua. Nghe tin ngôi đình linh thiêng, người nông dân nọ đã đến cầu và khấn rằng: “Xin ngài hiển linh phù hộ cho con bán được nhiều dưa. Con cúi đầu đội ơn ngài, ghi lòng tạc dạ không dám quên”. Quả nhiên, sau lời khấn bán dưa rất chạy.
Người nông dân bèn thuật lại việc làm của mình với dân làng ở Yên Ninh. Cư dân bản xã đều khâm phục, họ sửa lễ đến nơi thờ thần để xin rước chân nhang thần về thờ.
Nhìn chung qua các nguồn tư liệu, có thể thấy vị thần này là một Nhiên thần, theo quan niệm dân gian đây là vị thần giúp cho nhân dân cầu được cuộc sống ấm no. Ngoài vùng đất xã Yên Mỹ có thờ thần Câu Mang, trên địa bàn tỉnh Ninh Bình hiện nay có đền Nội ở thị trấn Yên Ninh, huyện Yên Khánh; đình Cam Giá, phường Ninh Khánh, thành phố Ninh Bình; đình Thượng làng Xuân Thành, xã Tân Thành, huyện Kim Sơn cũng thờ vị thần này.
2. Bát vị hậu thần:
Hiện nay trong đình có thờ bài vị của 8 vị hậu thần
- Ngô tướng công, tự Nghĩa Sơn [giữ chức] Đặc tiến phụ quốc Thượng tướng quân Cẩm Y vệ Đô đốc chỉ huy sứ ty đồng trấn điện, lý vực đại thần[4].
Theo gia phả họ Ngô (xóm Mỹ Thắng) lập năm 1859 thì Thượng tướng quân Cẩm Y vệ Ngô Công Lược tự Nghĩa Sơn, người huyện Vọng Doanh, phủ Nghĩa Hưng (nay là huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định), năm Hồng Đức nguyên niên (1470) vâng chiếu chiếm xạ ruộng huyện Yên Mô, dựng nhà cửa ở đây, đặt tên là Côi Đàm (sau đổi thành Côi Trì).
- Ninh tướng công, tự Thuần Phụ, thụy Nhã Hiên, đỗ Đồng tiến sĩ khoa Kỷ Hợi, giữ chức Giám sát ngự sử đạo Hải Dương, lý vực đại thần.
Theo tài liệu lưu giữ tại nhà thờ Ninh Địch, cụ Ninh Đạt tự Thuần Phụ, thụy Nhã Hiên, hậu duệ của dòng họ Ninh. Khoa thi năm Kỷ Hợi niên hiệu Vĩnh Thọ (1659) ông đỗ Tiến sĩ, giữ chức Giám sát ngự sử đạo Hải Dương, hiện vẫn còn bia đá ở Văn Miếu – Quốc Tử Giám ghi lại những người đỗ Tiến sĩ trong thời gian này.
- Quan phụ ấm phong Đông các học sĩ Ninh tướng công, tự Hoằng Nghị, thụy Cảnh Trực, lý vực đại thần.
Theo tài liệu lưu giữ tại đền thờ Ninh Địch, Cụ Ninh Hoằng Nghị sinh năm 1665, mất năm 1746, tên húy là Lệnh, tự Anh Hiền, hậu duệ đời thứ 7 của dòng họ Ninh, từng thi đỗ hương cống, sau này làm quan tri huyện ở Quảng Bình. Cụ có con trai là Ninh Địch đỗ Hoàng giáp, sau làm quan đến chức Đông các Đại học sỹ nên được ấm phong, cụ là Hậu thần của làng được thờ tại đình làng Côi Trì.
- Ninh tướng công, tự Ngọc Đường, thụy Thông Mẫn, đỗ Chánh tiến sĩ khoa Mậu Tuất, [giữ chức] Đốc thị xứ Nghệ An, [thăng] Đông các đại học sĩ, tặng Hàn lâm viện thừa chỉ, lý vực đại thần.
Theo tài liệu lưu giữ tại nhà thờ Ninh Địch[5], cụ Ninh Địch tên húy là Sắc, tự là Địch, hậu duệ đời thứ 8 của dòng họ Ninh, làm quan thời Lê sơ. Cụ Ninh Địch sinh năm 1687, mất năm 1734. Khoa thi năm Mậu Tuất niên hiệu Vĩnh Thịnh (1718), ông đỗ Hoàng giáp (đệ nhị Tiến sĩ xuất thân), giữ các chức Bố chánh, Phó đốc thị xứ Nghệ An, thăng triều liệt đại phu. Năm 1733, ông được phong Đông các Đại học sỹ, tặng Hàn lâm viện thừa chỉ.
- Quan phụ ấm phong Hàn lâm viện thị độc Vũ Vân hầu Ninh tướng công, hiệu Dã Hiên, tự Hy Tăng, thụy Đại Định tiên sư, Anh dực Địch triết Cư nhân An nghĩa Anh đoạn Hùng nghị Đại vương.
Theo tài liệu lưu giữ tại đền thờ Ninh Tốn, cụ Ninh Ngạn, thân sinh ra cụ Ninh Tốn, tên hiệu là Dã Hiên, Hy Tăng cư sĩ, hậu duệ đời thứ 8 của dòng họ Ninh. Cụ sinh năm Ất Mùi, niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 11 (1716) và mất năm Tân Sửu (1781), thọ 67 tuổi. Bài vị thờ cúng cụ tại nhà thờ Ninh Tốn[6] ghi “có ấm phong Hàn lâm viện thị độc”, cụ có con trai là Ninh Tốn đỗ Tiến sĩ nên được ấm phong, cụ là Hậu thần của làng được thờ tại đình làng Côi Trì.
- Ninh tướng công, hiệu Chuyết Sơn đạo nhân, tự Hy Chí, thụy Nhân văn, [đỗ] đồng Tiến sĩ khoa Mậu Tuất, [chức] Đặc tiến kim tử vinh lộc thượng đại phu thị trung đãi chiếu Thượng thư, [tước] Trường Nguyên hầu, Quốc vực đại thần[7].
Theo tài liệu lưu giữ tại đền thờ Ninh Tốn[8], thì cụ Ninh Tốn tự là Khiêm Như, sau đổi là Hy Chí, tên hiệu là Mẫn Hiên, Chuyết Sơn cư sĩ, Song An cư sĩ, hậu duệ đời thứ 9 của dòng họ Ninh. Ông sinh năm 1743, chưa rõ năm mất. Khoa thi năm Mậu Tuất niên hiệu Cảnh Hưng thứ 39 (1778) ông thi đỗ Tiến sỹ. ông làm quan đến chức Binh bộ thượng thư tước hầu.
- Nghĩa dũng Lý vực đại thần.
- Trung văn Lý vực đại thần
Đây là hai quan tả, hữu của Thượng tướng Ngô Công Lược, là cánh tay đắc lực giúp cho Ngô Công Lược trong việc chiếm xạ ruộng đất huyện Yên Mô.
3. Bát vị tiên sinh
Bài vị thờ tại di tích có ghi họ tên của bát vị tiên sinh. Trong số 89 vị chiếm xạ (những người đến khai khẩn đầu tiên vùng đất này), có 8 người được phong là tiên sinh, là những người ưu tú nhất, góp công góp lực lãnh đạo công cuộc mở vùng đất mới. Về thành phần xuất thân của các vị chiếm xạ, chủ yếu là dân nghèo, trong 89 vị chiếm xạ có 1 quan lại (Ngô Công Lược), 2 điền chủ (Nguyễn Điểm, Phạm Nhân Lão), 1 thầy đồ (Ninh Doãn Trung), 3 binh lính (Tạ Lỗi, Nguyễn Đại, Ngô Liệt), 82 người còn lại là dân nghèo. Tất cả các vị chiếm xạ chủ yếu đến từ vùng đất Nam Định, 4 người đến từ hai xã Nộn Khê và Trinh Nữ, huyện Yên Mô. 8 người được phong là tiên sinh gồm:
- Nguyễn Điểm, Phạm Nhân Lão, Tạ Lỗi, Trần Thái, Nguyễn Đàn (Dân) quê ở huyện Đại An (nay là huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định).
- Ninh Doãn Trung, Vũ Đằng, Nguyễn Quyết quê ở huyện Vọng Doanh (nay là huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định).
Vào giữa thế kỷ XV, vùng đất Côi Trì còn là khu sa bồi ven biển, biển vẫn sát phía Đông làng. Dấu vết của biển còn khá rõ, tại xứ Đồng Đầm khi đào đến độ sâu 40-50cm, có rất nhiều vỏ sò, vỏ hến[9].
Công cuộc khai hoang lập làng Côi Trì được tiến hành theo phương thức chiếm xạ[10]. Gia phả họ Ngô (xóm Mỹ Thắng) lập năm 1859 có ghi: “thủy tổ Ngô Công Lược làm Cẩm y vệ sĩ, người huyện Vọng Doanh, phủ Nghĩa Hưng, năm Hồng Đức nguyên niên (1470) vâng chiếu chiếm xạ ruộng huyện Yên Mô, xã Yên Mô, dựng nhà cửa ở đấy đặt tên là Côi Đàm (sau đổi là Côi Trì)”. Tài liệu này còn cho biết ông cùng với ông Phạm Nhân Lão, Nguyễn Điểm là những nhà giàu có ở huyện Đại An (nay là Nghĩa Hưng) xuất tài lực chiêu mộ dân nghèo để khai khẩn theo phép chiếm xạ. Bia Hoàng Giáp công bản truyện, năm 1781 chép: thủy tổ họ Ninh húy là Doãn Trung người Ninh Xá, huyện Vọng Doanh năm Hồng Đức nguyên niên cùng con là Doãn Trinh, hưởng ứng chiếu nhà vua chiếm xạ ấp này.
Ngoài ra di tích còn phối thờ: Nhị vị chúa bản phương, thờ Công đồng.
B. Nhân vật thờ cúng tại Miếu: Tam vị Thánh Tản
Tam vị Thánh Tản - tên gọi của ba vị thần núi Tản, là những vị thần tối cổ trong tâm linh dân tộc Việt, do vậy đã được các thư tịch cổ ghi nhận rất sớm, tiêu biểu kể đến các sách: Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích quái, Việt sử lược, An Nam chí lược, Đại Việt sử kí toàn thư, Dư địa chí, Kiến văn tiểu lục, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, v.v… Trong các tài liệu dẫn ở trên, Tam vị Thánh Tản đều xuất hiện với tư cách là vị thần núi, nghĩa là nhiên thần. Từ sau thế kỷ XIV, các ngài được dân gian nhân cách hóa thành nhân thần có lý lịch, quê quán, chức sắc đầy đủ và chi tiết.
Truyền thuyết về Tam vị Thánh Tản có rất nhiều dị bản. Song qua nội dung của các bản ngọc phả còn lưu giữ ở nhiều nơi trên đất Ninh Bình[11] thì có thể tóm lược về thân thế của các ngài như sau: Tản Viên Sơn Thánh (Tuấn công) cùng với Cao Sơn (Sùng công) và Quý Minh (Hiển công) là ba anh em con chú con bác, quê ở động Lăng Xương, huyện Gia Hưng, tỉnh Hưng Hoá, đạo Sơn Tây (nay thuộc thành phố Hà Nội). Năm 13 tuổi, cha mẹ qua đời, cả ba anh em đều sang làm con nuôi cho bà Ma Thị. Tuấn công được Thái Bạch Thiên Tinh ban cho gậy thần, Long Vương trả ơn bằng sách ước, lại được bà mẹ nuôi Ma Thị giao tất cả núi non trên đất liền. Tuấn công phân non sông làm đôi, bên tả cho Sùng công gọi là Tả Khiên thần, bên hữu cho Hiển công gọi là Hữu Khiên thần. Từ đó nhân dân gọi các ông là Tam vị Thánh Tản.
Ba anh em Tản Viên là những người đã có nhiều công lao giúp vua Hùng Duệ vương đánh đuổi giặc Thục. Người anh cả Tuấn công được vua Hùng phong chức Ngũ Đạo Đại Tướng hình án Nguyên Suý, quyền trưởng thuỷ bộ hai dinh, sau gia phong là Quốc chủ. Sùng công được ban chức Tả Đô Đài Đại phu, lại gia phong là Cao Sơn Đại vương. Hiển công được ban chức Hữu Đô Đài đại phu, sau gia phong là Quý Minh Đại vương. Sau khi được vua Hùng ban thưởng, ba ông bái tạ rồi xin đi chu du thiên hạ. Tản Viên Sơn Thánh về trời vào ngày 20 tháng 10 âm lịch. Cao Sơn và Quý Minh ở đất Vân Cái, An Lão nghe tin vua Hùng và Sơn Thánh đều hoá, liền mời các phụ lão đến ban cho 6 hốt vàng để chi phí chi tiêu thờ cúng vua Hùng và Sơn Thánh. Sau đó, hai ông về động Lăng Xương, trấn Quảng Phúc, phường Nghi Tàm. Quý Minh bị phong hàn và mất ở đó vào ngày 23 tháng 10 âm lịch. Nhân dân an táng ông ở phía tây phường Nghi Tàm và cho lập đền thờ. Sáu ngày sau, Cao Sơn về động Long Vân tế tổ tiên, lên núi, tự nhiên thấy trời đất tối tăm rồi mất ở đó.
Trải qua các triều đại phong kiến Việt Nam, Tam vị Thánh Tản luôn được triều đình và nhân dân sùng phụng, đồng thời núi Tản Viên (khu vực núi Ba Vì) được coi là núi tổ, trấn sơn, cấm địa của cả nước. Miếu làng Côi Trì thờ các ông với ý nghĩa để khắc ghi ơn đức của các ông đánh đuổi giặc ngoại xâm và che chở cho nhân dân được thịnh vượng, sung túc.
C. Sự kiện liên quan đến di tích
1. Di tích trong các thời kỳ kháng chiến:
Người dân Côi Trì, xã Yên Mỹ vốn có truyền thống yêu nước, tình thần đấu tranh bất khuất chống kẻ thù xâm lược và bè lũ tay sai nên khi thực dân Pháp đánh chiếm Ninh Bình, nhân dân địa phương đã tham gia và ủng hộ phong trào kháng Pháp. Nhân dân tích cực tham gia vào các phong trào đấu tranh chống Pháp của những văn thân yêu nước, phong trào đấu tranh chống sưu thuế của phát xít Nhật (1944). Có thể nói, những cuộc đấu tranh trên chính là tiền đề, là cơ sở cho những cuộc đấu tranh chống thực dân, đế quốc rất sôi nổi, mạnh mẽ trong thời gian sau.
+ Trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954): Đình là địa điểm hội họp của các đoàn thể kháng chiến, là căn cứ hoạt động của dân quân du kích địa phương và nơi hoạt động của các chiến sỹ cách mạng. Đình là nơi tổ chức lớp học văn hóa cho con em trong vùng.
Năm 1947 đến năm 1948: là Bệnh viện dã chiến (nhà thương) tạm thời của Quân khu III.
Từ năm 1950 đến năm 1955: Hậu cung của đình là nơi cất giữ lương thực, vũ khí để phục vụ cho việc chống Pháp cứu nước.
+ Trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ (1954-1975):
Đình làng Côi Trì là cơ sở phục vụ các hoạt động công cộng của làng xã, địa điểm đình làng tiếp tục được nhân dân tu sửa vừa là nơi hội họp, tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước vừa đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng của nhân dân.
Di tích là kho lưu trữ của Quân khu III, nơi đón tiếp thương binh, nơi tập trung, đưa tiễn con em trong làng Côi Trì lên đường làm nhiệm vụ chống Mỹ cứu nước, bảo vệ tổ quốc.
Trong giai đoạn từ năm 1960 đến năm 1970: miếu thờ Tam vị Thánh Tản (nằm trong khuôn viên di tích) là cửa hàng bách hóa của Hợp tác xã.
2. Di tích trong thời kỳ hòa bình:
Ngày nay, đời sống kinh tế của nhân dân phát triển, di tích ngày càng giữ vị trí quan trọng hơn trong đời sống tinh thần của nhân dân, trở thành trung tâm sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của nhân dân trong vùng, là cầu nối để đưa con em xa quê trở về với quê cha đất tổ, nơi họ đã sinh ra và lớn lên.
PHẦN V: SINH HOẠT VĂN HÓA TÍN NGƯỠNG LIÊN QUAN ĐẾN DI TÍCH
Làng Côi Trì (xưa) là một nơi giàu truyền thống văn hóa và cách mạng, tại đây còn lưu giữ được nhiều nét sinh hoạt văn hóa dân gian đặc sắc, phản ánh đậm nét đời sống tinh thần của nhân dân. Hàng năm, tại di tích diễn ra các hoạt động văn hóa, lễ hội chính như sau (tính theo Âm lịch):
1. Lễ Đầu năm (kết hợp ngày tế Yến lão): ngày 14 tháng Giêng. Lễ cầu năm mới mưa thuận gió hoà, mùa màng tốt tươi, cầu quốc thái dân an. Đây cũng là dịp để dân làng mừng các cụ thọ từ 70 tuổi trở lên.
Nghi thức tế yến lão tổ chức tại di tích là một hình thức sinh hoạt văn hóa giàu truyền thống, bày tỏ sự kính trọng các bậc cao niên, tôn sùng đạo hiếu, thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc.
2. Tết Đoan ngọ: ngày 5 tháng 5: nhân dân trong xóm tổ chức tế lễ.
3. Lễ Thượng điền: ngày 15 tháng 7: nhân dân trong xóm tổ chức tế lễ.
4. Lễ cơm mới: ngày 10 tháng 9: nhân dân trong xóm tổ chức tế lễ.
5. Ngày kỵ Tản Viên Sơn Thánh: ngày 20 tháng 10: nhân dân trong xóm tổ chức tế lễ.
6. Lễ Tất niên (kết hợp ngày kỵ thánh): ngày 25 tháng 12: nhân dân trong xóm tổ chức tế lễ.
7. Lễ Trừ tịch (đêm giao thừa): Đêm cuối tháng 12, nhân dân trong vùng tới tế lễ, tổ chức đón giao thừa tại di tích.
* Lễ hội truyền thống (tổ chức ngày 10 tháng 3): ngày mùng 9 tháng 3, nhân dân trong làng dọn dẹp khuôn viên di tích, lau rửa các đồ thờ tự, sắp xếp đồ lễ.
Lễ hội được tổ chức bao gồm 02 phần chính: phần lễ và phần hội.
Phần lễ:
- Lễ rước kiệu: diễn ra vào buổi sáng ngày mùng 10, kiệu được rước từ chùa về đình tế, sau đó xuống miếu của các xóm lân cận, cuối cùng quay về chùa. Đoàn kiệu có đội tế và đội bát âm đi cùng. Khoảng 10 giờ trưa, tiến hành tế lễ tại đình, có văn tế kèm theo hát chúc văn.
- Lễ dâng hương: diễn ra vào buổi sáng ngày mùng 10, có đội tế nam quan và đội tế nữ quan, các đoàn thể và nhân dân vào dâng hương.
- Lễ tạ: tổ chức vào buổi chiều ngày mùng 10.
Phần hội được diễn ra sôi nổi, phong phú với nhiều trò chơi dân gian như: cờ người, chọi gà, bắn nỏ, đánh đáo, đấu vật, biểu diễn văn nghệ…
Ngoài các lễ chính như trên, vào ngày rằm, mùng một hàng tháng, các lễ tiết trong năm, nhân dân quanh vùng đến thắp hương cầu may.
PHẦN VI: KHẢO TẢ DI TÍCH.
1. Tổng thể:
Đình làng Côi Trì nằm trong không gian văn hoá làng quê thanh bình. Phía trước di tích có ao, xung quanh trồng các loại cây xanh, là nơi tụ thủy, lưu phúc. Các kiến trúc được xây dựng hài hòa, tạo cảnh quan đẹp và thâm nghiêm. Di tích tọa lạc trên mảnh đất rộng, thoáng đãng với diện tích 2,504m2 (gồm 3 thửa đất số 229, 215 và 250)[12].
Cổng dẫn vào di tích được bố trí phía trước, kiến trúc kiểu nghi môn, cổng giữa xây dựng kiểu trụ biểu, trên thân đắp nổi các câu đối bằng chữ Hán, phía trên đỉnh trang trí nghê chầu, 2 cửa bên nhỏ hơn kiến trúc có mái, ngoài cùng là 2 cột trụ biểu nhỏ, phía trên đỉnh trang trí búp sen bằng sứ.
Sân: Có diện tích rộng, thuận tiện cho việc tổ chức các hoạt động văn hóa, các ngày tế lễ, ngày hội hàng năm.
Vườn: trong sân có trang trí các vườn hoa, cây cảnh được xây quây bằng gạch.
Trên mặt bằng tổng thể, đình làng Côi Trì gồm các hạng mục công trình sau: Cổng, vườn hoa, sân, miếu và công trình kiến trúc trung tâm đình làng.
Di tích có hệ thống tường bao quanh khép kín bảo vệ công trình đình làng.
2. Kiến trúc:
2.1. Đình làng Côi Trì
Đình được xây dựng theo kiểu chữ Nhị ( ) gồm Tiền bái và Hậu cung. Di tích còn giữ được những nét kiến trúc và các mảng chạm khắc thời Nguyễn.
Toà Tiền bái: gồm 5 gian, dài 13,4m, rộng 8,8m, cao 6m. Đây là nơi đặt ban thờ Công đồng, các đồ tế khí: hệ thống bát bửu, giá chiêng, giá trống, chuông, lọng, ngựa thờ… nơi hội họp của dân làng trong những dịp chuẩn bị tế lễ.
Từ Tiền bái vào Hậu cung là một khoảng sân nhỏ rộng 4,1m. Chính giữa sân có đặt bát hương đá và hai cây đèn đá.
Toà Hậu cung: gồm 3 gian, tường hồi bít đốc. Chiều dài 7,7m, chiều rộng 6,3m, cao 4,5m. Hậu cung là nơi đặt ban thờ thần Câu Mang, bát vị hậu thần, bát vị tiên sinh, nhị vị chúa bản phương.
Hiên Hậu cung dài 7,7m, rộng 2,05m, có đặt ban thờ Công đồng.
Kiến trúc cụ thể như sau:
* Kết cấu nền: Nền được xây giật cấp, cao dần vào phía trong. Toàn bộ nền được lát gạch đỏ. Nền Hậu cung cao hơn nền sân nối giữa Tiền bái và Hậu cung 0,3m. Nền Tiền bái cao hơn nền sân 0,3m. Bậc hiên Tiền bái xây nhị cấp, các bậc cách nhau 0,2m. Bậc hiên Hậu cung xây nhị cấp, các bậc cách nhau 0,16m.
* Kết cấu mái:
Toàn bộ mái của di tích được kiến trúc theo lối nhà ở truyền thống của người Việt (mái chảy), mái lợp ngói vẩy. Mái Tiền bái cao hơn mái Hậu cung.
Hiên tòa Hậu cung theo kiểu chồng rường con nhị, các con nhị được kết nối với hệ thống cột gắn liền với ngưỡng cửa. Hiên được đỡ bởi 4 cột gỗ tiết diện tròn.
Tiền bái: hệ thống vì kèo bằng gỗ lim (gồm 4 bộ vì), kiểu thượng rường hạ kẻ. Các cấu kiện hoành, xà, rui, mè đều bằng gỗ tứ thiết.
Hậu cung: hệ thống vì kèo bằng gỗ lim (gồm 3 bộ vì), kiểu chồng rường con nhị. Các cấu kiện hoành, xà, rui, mè đều bằng gỗ tứ thiết.
* Kết cấu thân nhà:
- Hệ thống tường: được xây bằng gạch, trát vôi vữa kiên cố.
- Hệ thống cột:
Tiền bái: có 4 hàng cột, mỗi hàng 4 cột bằng bê tông giả gỗ có tiết diện tròn đặt trên chân tảng đá vuông. Trên một số cột có treo câu đối chữ Hán.
Hiên Hậu cung có 4 cột gỗ được xây dựng cân đối, tạo ra 3 ô cửa tương ứng với 3 gian nhà Hậu cung. Các cột đều được làm bằng gỗ có tiết diện tròn, trên thân cột có vẽ trang trí rồng, vân mây, đặt trên chân đá tảng.
Hậu cung: có 3 hàng cột, mỗi hàng 2 cột gỗ lim có tiết diện tròn đặt trên chân tảng đá, một hàng cột gắn vào ngưỡng cửa tạo thành hệ thống cánh cửa.
- Hệ thống cửa:
Tòa Tiền bái: Với 5 gian nhà được xây dựng cân đối, 3 gian giữa không có hệ thống tường hay cánh cửa, để thông phong cả phía trước và sau, hai gian bên có hai cửa sổ nhỏ hình tròn, trang trí chữ thọ.
Toà Hậu cung: 3 gian nhà tương ứng với ba cửa ra vào, đóng hộc ô, nẹp chỉ đều đặn, tạo bởi 4 cột gỗ lim, kích thước các cửa bằng nhau, cửa rộng 1,54m, cao 1,65m, cửa có 4 cánh, mỗi cánh rộng 0,39m. Cánh cửa bằng gỗ lim, sơn son, cửa chân quay, then cài, thiết kế kiểu bức bàn. Ngưỡng cửa bằng gỗ, cao 0,5m.
* Trang trí mái:
- Mái Tiền bái:
+ Hai bên đốc mái là hai đấu nhỏ hình vuông.
+ Con kìm hai đầu bờ nóc là hình tượng đôi lưỡng long được đắp tinh xảo với thân hình thanh thoát, tạo cho thế rồng như đang nhào xuống trần gian.
+ Bờ guột hai bên được xây giật cấp thành hai đoạn xuống đến mái hiên, phía dưới trang trí vân mây hình đao mác
- Mái Hậu cung
+ Hai bên đốc mái là hai đấu nhỏ hình vuông.
+ Con kìm hai đầu bờ nóc là hình tượng đầu rồng, hai đầu rồng được diễn tả sống động với mũi nở, miệng rộng, mặt mở to, bờm bay ngược về phía sau cũng được cách điệu hình vân văn đao mác.
+ Bờ guột hai bên được xây xuống đến mái hiên, nối liền với hai cột trụ biểu.
* Hoa văn chạm khắc:
Các mảng chạm khắc được thể hiện trên các bẩy, kèo ngoài hiên Hậu cung, ván mê, vì kèo ở tòa Tiền bái và Hậu cung, hệ thống cửa võng của cả hai tòa. Các đường nét chạm khắc tinh xảo, hài hòa với không gian của di tích, đề tài chạm khắc chủ yếu là tứ linh, tứ quý, rồng, vân mây, sóng nước…Đặc biệt, toàn bộ tòa Hậu cung được sơn son, các cấu kiện như ván mê, các bức cốn, câu đầu được sơn son thếp vàng, các cột gỗ được vẽ trang trí các họa tiết rồng cuốn, vân mây.
Đình làng Côi Trì trải qua nhiều lần tu bổ song vẫn giữ được nét kiến trúc cổ kính thời Nguyễn, các cấu kiện kiến trúc được trang trí cân đối, hài hòa trong từng bố cục công trình, các mảng hoa văn chạm khắc tinh xảo có giá trị về mặt thẩm mỹ và văn hóa.
2.2. Miếu thờ Tam vị Thánh Tản:
Miếu được xây dựng theo kiểu Tiền đao hậu đốc. mang phong cách kiến trúc thời Nguyễn với nhiều mảng chạm khắc tinh xảo.
Toàn bộ miếu được bố cục theo kiểu chữ Nhất, gồm 3 gian nhà chạy dọc, tường hồi bít đốc. Kích thước chiều dài 11,5m, chiều rộng 5,1m, cao 4,1m.
Hiên nhà dài 5,1m, rộng 1,1m.
Kiến trúc cụ thể như sau:
* Kết cấu nền: Toàn bộ nền được đổ bê tông. Nền miếu cao hơn nền sân 0,3m. Bậc hiên xây nhị cấp, các bậc cách nhau 0,15m. Sân lát gạch đỏ
* Kết cấu mái:
Mái lợp ngói vẩy.
Hệ mái: hệ thống vì kèo bằng gỗ lim (gồm 4 bộ vì), 2 bộ vì giữa kiểu chồng rường con nhị, hai bộ vì đầu, cuối kiểu ván mê. Các cấu kiện hoành, xà, rui, mè đều bằng gỗ tứ thiết.
* Kết cấu thân nhà:
- Hệ thống tường: được xây bằng gạch, trát vôi vữa kiên cố.
- Hệ thống cột: có 5 hàng cột, mỗi hàng 4 cột gỗ lim có tiết diện tròn đặt trên chân tảng đá, một hàng cột gắn vào ngưỡng cửa tạo thành hệ thống cánh cửa.
- Hệ thống cửa: 3 gian nhà tương ứng với ba cửa ra vào, đóng hộc ô, nẹp chỉ đều đặn, tạo bởi 4 cột gỗ lim, kích thước cửa giữa rộng 1,2m, cao 1,3m, cửa có 4 cánh, mỗi cánh rộng 0,3 m. Hai cửa bên rộng 0,6m, cao 1,3m, cửa có 2 cánh, mỗi cánh rộng 0,3 m. Cánh cửa bằng gỗ lim, sơn son, cửa chân quay, then cài, thiết kế kiểu bức bàn. Ngưỡng cửa bằng gỗ, cao 0,35m.
3. Hướng di tích:
Đình quay hướng Nam, các ban thờ trong di tích cũng quay theo hướng này.
Miếu quay hướng Tây, ban thờ trong di tích cũng quay theo hướng này.
4. Bài trí thờ tự trong di tích:
Sơ đồ bài trí thờ tự chỉ mang tính khái quát, không gian thờ cúng và từng ban thờ cụ thể xem chi tiết tại tập ảnh khảo tả di tích kèm theo. Theo hướng nhìn từ ngoài vào trong, từ phải sang trái, vị trí các ban thờ được bài trí như sau:
4.1. Đình
Chú thích:
A. Tiền đường: A1: Ban thờ Công đồng
B. Hậu cung
B1: Ban thờ bát vị hậu thần
B2: Ban thờ thần Câu Mang
B3: Ban thờ bát vị tiên sinh
4.2. Miếu
Chú thích: A: Ban thờ Tam vị Thánh Tản
PHẦN VII: SƠ ĐỒ PHÂN BỐ HIỆN VẬT TẠI DI TÍCH
1. Sơ đồ phân bố hiện vật tại đình
Chú thích:
A. Tiền bái: Tiền bái là nơi đặt ban thờ Công đồng, các đồ khí tự: hệ thống bát biểu, giá chiêng, giá trống, chuông, lọng, ngựa thờ… nơi hội họp của dân làng trong những dịp chuẩn bị tế lễ.
1. Nhang án
2. Bát hương
5. Mâm bồng
6. Chân nến
|
3. Đài thờ
4. Ống hương
7. Mâm mịch
|
B. Hậu cung
B1: Ban thờ bát vị hậu thần
|
B2: Ban thờ thần Câu Mang
|
B3: Ban thờ bát vị tiên sinh
|
1.2,3,4,5,6,7,8. Bài vị
9. Bát hương
10. Hạc thờ
11, 12,13. Đài thờ
14,15,16. Đài thờ
17. Ống hương
18, 19. Mâm bồng
20. Chân nến
|
1. Nhang án
2. Ngai và bài vị
3. Đế bát hương
4. Bát hương
5. Bảng chúc
6. Bình hoa
|
7. Nhang án
8. Đài rượu
9. Hạc thờ
10. Mâm bồng
11. Bát hương
12. Mâm bồng
13. Chân nến
14. Chân nến
|
1. Đế bàn thờ
2. Bài vị
3. Bát hương
4. Đài rượu
5. Hạc thờ
6. Ống hương
7. Mâm bồng
8. Chân nến
|
|
|
|
|
2. Sơ đồ phân bố hiện vật tại miếu
Chú thích: Tại miếu có ban thờ Tam vị Thánh Tản
1. Bàn thờ
2. Ngai thờ
3. Bài vị
4. Bát hương
5. Đài thờ
6. Nhang án
|
7,8. Mâm bồng
9. Hạc thờ
10. Ống hương
11. Bình hoa
12. Chân nến
|
3. Hiện vật tiêu biểu:
Bên cạnh giá trị về lịch sử, văn hóa thì hiện nay tại di tích còn lưu giữ được một số hiện vật với các thể loại và chất liệu khác nhau như: gỗ, đá, sứ. Sau đây là một số hiện vật có giá trị tiêu biểu:
* Tại đình:
- Nhang án, ngai thờ, bài vị, tại ban thờ thần Câu Mang được đặt ở gian chính giữa trong tòa Hậu cung của đình.
+ Nhang án: hiện được đặt gian giữa Hậu cung có kích thước cao 103cm, dài 140cm, rộng 81cm. Nhang án được chia ô, trang trí mặt trước, được đục chạm đề tài tứ linh, tứ quý và các họa tiết hồ phù, mây tản, hoa lá cách điệu, theo phong cách trang trí thời Nguyễn.
+ Ngai thờ thần Câu Mang có kích thước cao 109cm, dài 70cm, rộng 55cm, chia làm 3 phần, tay ngai chạm hình đầu rồng, phần trụ ngai phía trên, phía dưới chạm con tiện, phần giữa chạm rồng. Lưng ngai chia ra các ô chạm các đề tài rồng, hổ phù. Diềm lưng ngai chạm rồng. Bệ ngai làm theo kiểu chân quỳ dạ cá, ba mặt chạm hổ phù. Trên bệ ngai chia thành ba ô, chạm thông phong các đề tài lưỡng long chầu nguyệt, hoa thị, theo phong cách trang trí thời Nguyễn.
+ Bài vị: được đặt trong ngai thờ, bằng gỗ, có kích thước cao 95cm, được gia công tỉ mỉ. Các đường diềm xung quanh tạo các lớp mây, sóng nước, phần đỉnh trang trí lưỡng long chầu nguyệt. Trên thân bài vị có chữ Hán.
- Nhang án, bát hương tại ban thờ Công Đồng được đặt ở gian chính giữa trong tòa Tiền bái của đình.
+ Nhang án: hiện được đặt gian giữa Tiền bái có kích thước cao 138cm, dài 140cm, rộng 70cm. Nhang án được chia ô, trang trí ba mặt (mặt trước và hai mặt bên) được đục chạm đề tài tứ linh, tứ quý và các họa tiết hồ phù, mây tản, hoa lá cách điệu, theo phong cách trang trí thời Nguyễn.
+ Bát hương: chất liệu sứ, có kích thước cao 10cm, đường kính 20cm. Bát hương tròn, miệng loe, men xanh, trang trí lưỡng long chầu nguyệt.
- Bát hương đặt ngoài sân: chất liệu đá, có kích thước cao 10cm, đường kính 20cm, trang trí lưỡng long chầu nguyệt.
- 04 bia đá, kích thước và nội dung khác nhau, bia được gắn ở hông tường tòa Tiền bái và khoảng sân giữa tòa Tiền bái và Hậu cung, bia đá được khắc vào thời Nguyễn.
- 01 chuông đồng, có chiều cao 68cm, đường kính miệng 35cm. Chuông chia thành 3 phần: quai chuông đúc nổi họa tiết rồng đấu thân, thân chuông tạo thế thon dần về phía trên, xung quanh có các đường gờ nổi chia thành 4 ô cân xứng, mỗi ô có một núm tròn đúc nổi, phía trước có họa tiết tứ linh: long, ly, quy, phượng. Lợi chuông dật cấp 3 lần có đường viền xung quanh loe ra to hơn thân chuông.
* Tại miếu:
- Ngai thờ Tam vị Thánh Tản có kích thước cao 100cm, dài 70cm, rộng 56cm, chia làm 3 phần, tay ngai chạm hình đầu rồng, phần trụ ngai phía trên, phía dưới chạm con tiện, phần giữa chạm rồng. Lưng ngai chia ra các ô chạm các đề tài rồng, hổ phù. Diềm lưng ngai chạm rồng. Bệ ngai làm theo kiểu chân quỳ dạ cá, ba mặt chạm hổ phù. Trên bệ ngai chia thành ba ô, chạm thông phong các đề tài lưỡng long chầu nguyệt, hoa thị, theo phong cách trang trí thời Nguyễn.
- Bài vị: được đặt trong ngai thờ, bằng gỗ, có kích thước cao 91cm, được gia công tỉ mỉ. Các đường diềm xung quanh tạo các lớp mây, sóng nước, phần đỉnh trang trí lưỡng long chầu nguyệt. Trên thân bài vị có chữ Hán.
- Nhang án: hiện được đặt gian giữa Tiền bái có kích thước cao 138cm, dài 140cm, rộng 70cm. Nhang án được chia ô, trang trí ba mặt (mặt trước và hai mặt bên) được đục chạm đề tài tứ linh, tứ quý và các họa tiết hồ phù, mây tản, hoa lá cách điệu, theo phong cách trang trí thời Nguyễn.
Và một số đồ thờ tự khác. (Chi tiết xem tại bản thống kê hiện vật kèm theo)
PHẦN VIII: GIÁ TRỊ CỦA DI TÍCH
Di tích là nơi thờ thần Câu Mang, một nhân vật huyền thoại, có công giúp dân lành ấm no, yên ổn thanh bình. Tại đình làng Côi Trì, ông được thờ với vai trò “thành hoàng làng”.
Di tích được xây dựng gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của làng Côi Trì. Tìm hiểu về di tích, chúng ta có cơ hội hiểu thêm về công cuộc chiêu dân lập ấp của của các vị chiếm xạ, về sự hình thành và phát triển của vùng đất Côi Trì; về phong tục, văn hoá, nếp sống của nhân dân thời đó. Thông qua di tích, có thể thấy rằng các vị tiên hiền là những người có công đầu trong công cuộc khẩn hoang lập lên các làng, ấp. Các vị vừa là những người đứng ra chiêu tập dân chúng, chịu trách nhiệm trước nhà nước về công cuộc khẩn hoang, trực tiếp tổ chức điều hành công việc khẩn hoang. Đồng thời, là những người đứng mũi chịu sào trước những khó khăn trở ngại để giúp dân có thể vượt qua và đứng vững với cuộc sống mới ở nơi khai hoang. Bởi vậy, sau này nhân dân đều lập đình, miếu, tạc bia thờ tự trang nghiêm, tôn thờ các vị làm phúc thần của thôn, xã. Đây là tín ngưỡng dân gian độc đáo, làm nên phong tục thờ cúng tổ tiên, nét văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Làng Côi Trì nói riêng, xã Yên Mỹ nói chung, là vùng đất có truyền thống khoa bảng, nhiều di tích lịch sử văn hóa thờ các danh nhân có giá trị tiêu biểu như nhà thờ Tạ Uyên, nhà thờ Ninh Địch, đền thờ Ninh Tốn, nhân vật thờ tại các di tích trên là những người có tầm ảnh hưởng rộng, cuộc đời và sự nghiệp của các ông đã đi vào sử sách, có ý nghĩa giáo dục sâu sắc cho muôn đời sau.
Tìm hiểu về di tích, chúng ta có dịp tìm hiểu về truyền thống cách mạng của vùng đất Côi Trì, đây là nơi có nhiều thành tích, đóng góp sức người, sức của trong hai cuộc kháng chiến của dân tộc. Làng có hàng trăm người con tham gia chiến đấu giành độc lập dân tộc, tính đến nay, làng Côi Trì có 124 liệt sỹ hy sinh trong các cuộc kháng chiến (23 liệt sĩ trong kháng chiến chống Pháp, 69 liệt sĩ trong kháng chiến chống Mỹ, 32 liệt sỹ bảo vệ tổ quốc), cống hiến một phần xương máu cho độc lập Tổ quốc, 07 mẹ Việt Nam anh hùng.
Công trình kiến trúc đình làng Côi Trì được xây dựng từ lâu, trên một khuôn viên rộng gồm các hạng mục: Cổng, sân vườn, đình, miếu mang đậm phong cách kiến trúc nghệ thuật thời Nguyễn. Tại đình còn lưu giữ được nhiều hiện vật, đồ thờ tự quý như ngai thờ, bài vị, bát hương, nhang án, bia đá…thể hiện ý thức giữ gìn những di sản văn hóa của người dân địa phương. Đây là nguồn sử liệu quan trọng giúp chúng ta nghiên cứu về quá trình hình thành, tồn tại của di tích. Di tích là nơi sinh hoạt văn hóa tâm linh của dân làng, nơi diễn ra các hình thức sinh hoạt tín ngưỡng, lễ nghi, lễ hội truyền thống, thể hiện đời sống tinh thần phong phú của nhân dân đồng thời có ý nghĩa giáo dục các thế hệ đời sau về truyền thống, đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, đình là căn cứ hoạt động của dân quân du kích địa phương và nơi hoạt động của các chiến sỹ cách mạng. Đình là nơi tổ chức lớp học văn hóa cho con em trong vùng. Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, đình là nơi hội họp, tuyên truyền chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; nơi động viên đưa tiễn thanh niên lên đường chiến đấu bảo vệ tổ quốc.
PHẦN IX: THỰC TRẠNG BẢO VỆ VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI TÍCH
1. Quá trình hình thành và trùng tu, tôn tạo di tích
Đình làng Côi Trì là do nhân dân và các vị chiếm xạ (theo cách gọi của dân làng Côi Trì xưa) xây dựng, ban đầu là một ngôi đình nhỏ, làm nơi thờ thần Câu Mang Đại Vương, suy tôn làm thành hoàng làng. Khi đến khai khẩn vùng đất này, các vị chiếm xạ đã thiết lập nên một đời sống tinh thần ổn định cho nhân dân, để họ yên tâm sinh sống trên mảnh đất mới, xây dựng quê hương ngày một trù phú, phát triển. Sau này, các thế hệ con em làng Côi Trì mở mang, tôn tạo đình và đưa chân linh, bài vị bát vị tiên sinh về thờ phụng.
Di tích được xây dựng từ thế kỷ XV, lúc đầu di tích được xây dựng đơn sơ và quy mô nhỏ gọn, về sau được nhân dân tu bổ, nâng cấp khang trang hơn. Hiện nay, tại đình làng vẫn còn lưu vết tích của 89 vị chiếm xạ đã làm lễ ăn thề, đó là hòn đá với 89 vệt vạch là vết chém của 89 vị chiếm xạ đã ăn thề nguyện đoàn kết chung lưng sát cánh, khai phá đất đai xây dựng xóm làng[13], với tên gọi là hòn đá ăn thề, hòn đá chiếm xạ, đá chiếm xạ hay hòn chiếm xạ.
Trải qua bao biến đổi về thời gian, ảnh hưởng của thiên nhiên, chiến tranh, đình làng Côi Trì đã được chính quyền và nhân dân địa phương tu sửa nhiều lần. Thời gian gần đây, được sự quan tâm chỉ đạo của Đảng ủy, chính quyền, nhân dân địa phương đã đầu tư công sức và tiền của để tu bổ, tôn tạo lại di tích, tạo cho cảnh quan di tích ngày một khang trang, góp phần giáo dục truyền thống quê hương và đáp ứng nhu cầu tâm linh cho nhân dân trong vùng. Những lần tu sửa gần đây nhất là trùng tu Tiền bái (năm 2000), xây cổng năm (2006).
2. Thực trạng bảo vệ và phát huy giá trị di tích
Hiện nay công trình đình làng Côi Trì đã có nhiều thay đổi nhưng kiến trúc gần như còn giữ được nguyên trạng. Những năm gần đây, chính quyền và nhân dân đã không ngừng quan tâm tu bổ để di tích ngày một khang trang, bền vững. Việc tu bổ được chú ý bảo tồn phong cách kiến trúc cổ truyền. Công tác bảo vệ di tích đặt dưới sự chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền xã, và các bậc cao niên trong làng có uy tín đảm nhiệm nên đã không xảy ra tình trạng mất mát, làm sai lệch giá trị của di tích.
Tại địa phương đã thành lập Ban khánh tiết, gồm 13 người, do ông Vũ Văn Khải làm Trưởng ban. Ban có nhiệm vụ trông coi, bảo vệ di tích, sưu tầm tư liệu liên quan đến di tích, tuyên truyền, vận động nhân dân công đức để tu sửa, tôn tạo và bảo tồn di tích ngày càng khang trang.
Hiện nay, di tích được Nhà nước và nhân dân quan tâm, bảo vệ tốt, là nơi sinh hoạt văn hóa tinh thần của nhân dân.
PHẦN X. PHƯƠNG HƯỚNG BẢO VỆ VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI TÍCH
Qua thực trạng di tích, xây dựng phương hướng bảo vệ và phát huy giá trị di tích gắn với việc phát triển kinh tế - xã hội của địa phương như sau:
- Công tác quản lý, bảo tồn, trùng tu, tôn tạo và phát huy giá trị của di tích phải tuân thủ các quy định của Luật Di sản văn hóa, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo và các văn bản pháp luật khác có liên quan. Cần xác định di tích là tài sản văn hóa vô giá, là tài nguyên bền vững để triển khai đồng bộ các giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị.
- Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về lĩnh vực di sản văn hóa. Thành lập Ban quản lý di tích tập hợp những cán bộ có đủ năng lực, trình độ và kinh nghiệm trong công tác quản lý di sản văn hóa. Thường xuyên duy trì sự hoạt động của Ban quản lý di tích, trong ban phải có người am hiểu lịch sử địa phương và di tích để trực tiếp tham gia vào công việc tuyên truyền, phát huy giá trị của di tích.
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về giá trị của di tích, các yêu cầu về bảo tồn, phát huy giá trị di tích để cán bộ và nhân dân tự nguyện tự giác thực hiện
- Thực hiện tốt công tác truyền thông, duy trì và phát huy các sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng truyền thống, nhằm giáo dục cho nhân dân địa phương về các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc nói chung, nâng cao tinh thần đoàn kết cộng đồng.
- Cần có biện pháp để bảo vệ, giữ gìn được những hiện vật có giá trị của di tích và giá trị lịch sử, văn hóa tín ngưỡng của di tích.
XI. KẾT LUẬN
Xuất phát từ những giá trị của di tích, thể theo nguyện vọng của nhân dân và đề nghị của các cấp chính quyền địa phương tại Văn bản số 930/UBND-VHTT ngày 13 tháng 8 năm 2019 của Ủy ban nhân dân huyện Yên Mô về việc đề nghị xếp hạng di tích đình làng Côi Trì, xã Yên Mỹ; Căn cứ vào những giá trị khoa học, lịch sử của di tích, phòng Quản lý Di sản Văn hoá (Sở Văn hoá và Thể thao) phối hợp với địa phương lập hồ sơ khoa học, trân trọng đề nghị Hội đồng khoa học xét duyệt xếp hạng di tích, tỉnh Ninh Bình xem xét, trình Uỷ ban nhân dân tỉnh xếp hạng đình làng Côi Trì, xã Yên Mỹ, huyện Yên Mô là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh.
XII. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lịch sử Hà Nam Ninh, tập I, phòng Thông sử, xuất bản năm 1988.
2. Lịch sử Đảng bộ huyện Yên Mô, BCH Đảng bộ huyện Yên Mô, xb năm 2007.
3. Lịch sử Đảng bộ xã Yên Mỹ (1930-2010), BCH Đảng bộ xã Yên Mỹ, xuất bản năm 2017.
4. Lý lịch di tích nhà thờ Ninh Địch, xã Yên Mỹ, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, năm 2014.
5. Lý lịch di tích đền thờ Ninh Tốn, xã Yên Mỹ, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, năm 1996.
6. Lý lịch di tích đền Nội, thị trấn Yên Ninh, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình, năm 2007.
7. Lý lịch di tích đình Cam Giá, phường Ninh Khánh, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình, năm 2004.
8. Lý lịch di tích đình Thượng làng Xuân Thành, xã Tân Thành, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình, năm 2010.
9. Tư liệu Hán Nôm hiện có tại di tích do phòng Quản lý Di sản văn hóa phiên âm và dịch nghĩa.
PHÒNG QUẢN LÝ DI SẢN VĂN HÓA
TRƯỞNG PHÒNG
Vũ Thanh Lịch
|
Ninh Bình, tháng 9 năm 2019
NGƯỜI VIẾT LÝ LỊCH
Nguyễn Thị Quyên
|
SỞ VĂN HÓA VÀ THỂ THAO TỈNH NINH BÌNH
KT. GIÁM ĐỐC
PHÓ GIÁM ĐỐC
Nguyễn Cao Tấn
[1] Địa danh Côi Trì được gọi từ năm 1473, trích Lịch sử Đảng bộ xã Yên Mỹ 1930-2010, năm 2013, trang 6.
[2] Lịch sử Đảng bộ huyện Yên Mô, BCH Đảng bộ huyện Yên Mô, xb năm 2007, trang 9.
[3] Hồ sơ di tích đền Nội, thị trấn Yên Ninh, huyện Yên Khánh, xếp hạng cấp tỉnh, năm 2007.
[4] Lý vực đại thần: có nghĩa là bậc đại thần của thôn làng. Chúng tôi giữ nguyên văn chữ Hán không dịch nhằm biểu thị sự trang trọng.
[5] Nhà thờ Ninh Địch, xã Yên Mỹ đã được xếp hạng là di tích cấp tỉnh năm 2014.
[6] Đền thờ Ninh Tốn, xã Yên Mỹ đã được xếp hạng là di tích cấp quốc gia năm 1996.
[7] Quốc vực đại thần: có nghĩa là bậc đại thần của đất nước. Chúng tôi giữ nguyên văn chữ Hán nhằm biểu thị sự trang trọng.
[8] Đền thờ Ninh Tốn, xã Yên Mỹ đã được xếp hạng là di tích cấp quốc gia năm 1996.
[9] Tài liệu “Quá trình khai hoang lập làng Côi Trì dưới thời Lê Thánh Tông”
[10] Về phép chiếm xạ, xin tham khảo tài liệu: Chế độ ruộng đất Việt Nam thế kỷ XVI-XVIII, Trương Hưu Quỳnh, tập 1, Hà Nội 1982.
[11] Các bản ngọc phả hiện được lưu giữ ở nhiều nơi trên đất Ninh Bình như: đền làng Phương Đình, phường Ninh Sơn, thành phố Ninh Bình; đền Cả, làng La Mai, xã Ninh Giang, huyện Hoa Lư; chùa Duy Khánh, xã Thanh Lạc, huyện Nho Quan…
[12] Theo trích lục bản đồ địa chính của UBND xã Yên Mỹ năm 2019.
[13] trích Lịch sử Đảng bộ xã Yên Mỹ 1930-2010, xb năm 2013, trang 6.