Phần I. Tên gọi
Di tích từ trước tới nay
có tên thường gọi là “nhà thờ Ninh Tốn”, vì di tích vốn là nơi ông đã sinh ra
và lớn lên, từ khi Ninh Tốn mất đi, nơi đây đã trở thành nơi thờ cúng, tưởng niệm
ông.
Theo
bức đại tự ở hiên gian giữa Tiền bái di tích: nhấn vữa có ghi: “Từ đường Ninh
thị” (từ đường họ Ninh). Thực ra đây là nơi thờ cúng một số nhân vật khác thuộc
chi thứ hai họ Ninh, như thân phụ, thân mẫu Ninh Tốn, cách gọi “từ đường họ
Ninh” hoặc “từ đường chi thứ hai họ Ninh” rất ít gặp. Vậy
từ đường họ Ninh ở đây chỉ có ý nghĩa là nơi thờ cúng, tưởng niệm những người
cũng thuộc họ Ninh chứ không phải đồng nghĩa với “nhà thờ đại tôn”, do đó có di
tích có tên thường gọi là “nhà thờ Ninh Tốn”, đồng nghĩa với “nhà thờ đại tôn”,
do đó mà di tích có tên thường gọi là “nhà thờ Ninh Tốn”.
Tên
gọi khác là nhà thờ chi thứ hai họ Ninh.
Phần II. Địa điểm phân bố di tích, đường đi
đến di tích.
1. Địa điểm phân bố di tích.
Nhà
thờ Ninh Tốn hiện nay ở khoảng gần giữa thôn Côi Trì, xã Yên Mỹ, huyện Yên Mô,
tỉnh Ninh Bình. Nhà thờ được xây dựng trên nền nhà mà Ninh Tốn đã sinh ra và lớn
lên.
Di
tích nằm trên khu đất rộng hơn 600m2, thuộc dạng đất đồi, phia trước
hướng Đông Nam là hồ nước nhỏ, rồi đến sông và đường đi, phía sau di tích hướng
Tây Bắc tiếp giáp với ruộng lúa nước, các hướng Tây Nam, Đông Bắc tiếp giáp với
nhà dân.
Vùng
đất có di tích được hình thành vào thời Trần, lúc đó thuộc khu vực xứ Mô Độ.
Năm 1407, Trần Ngỗi lên ngôi hoàng đế, lấy căn cứ cạnh bến Mô Độ làm nơi tế cờ
xuất quân đánh giặc .
Khi
quân Minh dẹp được cuộc khởi nghĩa của Trần Quý Khoáng (1413), chúng đổi tên
huyện Mô Độ thành huyện Yên Mô.
Theo
văn bia ở chợ Bút dựng năm thứ 22 niên hiệu Cảnh Hưng (1761), di tích thuộc xã
Côi Trì, huyện Yên Mô, phủ Trường Yên.
Theo
“tên làng xã Việt Nam
đầu thế kỳ 19” di tích thuộc xã Côi Trì,
huyện Yên Mô, đạo Thanh Bình.
Năm thứ 2 đời vua Minh Mệnh
(1822) đổi đạo Thanh Bình thành đạo Ninh Bình và tên Ninh Bình có từ đây. Năm 1829,
đổi đạo Ninh Bình thành trấn Ninh Bình. Năm thứ 12 đời vua Minh Mệnh (1831) đổi
trấn Ninh Bình thành tỉnh Ninh Bình. Di tích thuộc xã Côi Trì, huyện Yên Mô, tỉnh
Ninh Bình.
Sau cách mạng tháng 8 năm
1945, Côi Trì thuộc xã Yên Mạc, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình.
Cuối năm 1955, tách thôn
Côi Trì để thành lập xã Yên Mỹ, thuộc huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình.
Cuối năm 1955, tách thôn
Côi Trì để thành lập xã Yên Mỹ, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình.
Năm 1976, tỉnh Ninh Bình
và Nam Hà hợp nhất thành tỉnh Hà Nam Ninh, di tích thuộc xã Yên Mỹ, huyện Yên
Mô, tỉnh Hà Nam Ninh.
Năm 1977, cắt 10 xã của huyện Yên Khánh sáp nhập vào huyện Yên Mô và đổi
tên thành huyện Tam Điệp, xã Yên Mỹ thuộc huyện Tam Điệp, tỉnh Hà Nam Ninh (Yên
Mỹ nhập thôn Hưng Hiền của xã Yên Phú).
Năm 1992, tách Hà Nam Ninh
thành hai tỉnh như cũ là Nam Hà và Ninh Bình.
Năm 1994, tái lập huyện
Yên Khánh theo như cũ, và huyện Yên Mô, di tích thuộc xã Yên Mỹ, huyện Yên Mô,
tỉnh Ninh Bình.
2. Đường đi đến di tích
Từ thị xã Ninh Bình, quý khách có thể đi theo các đường bộ sau đây:
Theo đường quốc lộ số 1A
(về mạn Thanh Hoá), đi hơn 9 Km đến ngã ba Bình Sơn, rẽ trái theo đường 59 đi
tiếp 15 km tới cầu Bút, rẽ phải khoảng 600m thì tới di tích, đây là con đường
tiện lợi nhất.
Theo đường 10 (mạn đi Kim
Sơn) đi 8 km, rẽ phải khoảng hơn 5km tới huyện lỵ Yên Mô, rẽ trái đi tiếp khoảng
11km tới cầu Bút, rẽ phải vào di tích.
Theo đường 10 (mạn đi Kim
Sơn), khoảng 12 km tới huyện lỵ Yên Khánh, rẽ phải (đường đi chợ Lồng) khoảng
13 km tới cầu Bút, rẽ phải khoảng 600m thì tới di tích.
Tất cả các con đường bộ
trên, quý khách đều có thể đi bằng ô tô, xe đạp, xe máy.
Phần III. Sự kiện, nhân vật lịch sử và thuộc tính của di tích.
Nhà thờ Ninh Tốn ngoài việc
thờ cúng tưởng niệm ông, còn là nơi tưởng niệm thờ cúng một số nhân vật thuộc
chi thứ 2 của họ Ninh. Trước khi vào phần chính là nhân vật Ninh Tốn, chúng tôi
xin nêu những nét khái quát và các nhân vật khác hiện đang thờ cúng ở di tích.
1. Một số nhân vật khác đang thờ cúng ở nhà thờ Ninh Tốn
- Ninh Ngạn, thân sinh ra
Ninh Tốn, tên hiệu là Dã Hiên, Hy Tăng cư sĩ. Ông sinh năm Ất Mùi, niên hiệu
Vĩnh Thịnh thứ 11 (1716) và mất năm Tân Sửu (1781), thọ 67 tuổi.
Bài vị thờ cúng ông ghi “có ấn phong Hàn lâm viện thị độc”. Hậu thần, Ninh tướng
công, huý Tiến, tự Ngạn, hiệu Hy Tăng tiên sinh”, được ấn phong Hàn lâm viện thị
độc và là Hậu thần của làng.
Ngay sau khi ông mất, Tiến
sĩ Vũ Huy Bình đã viết bài văn bia
nêu những nét chính về cuộc đời, sự nghiệp cũng như ca ngợi đức hạnh ông. Năm
24 tuổi vào trường quốc học (1735). Năm 36 tuổi đỗ cử nhân (1750). Năm sau ông
đi thi hội nhưng không đỗ. Năm 45 tuổi, ông giữ chức Hiến phó tán chức. Bốn lần
thi hội, không toại nguyện, ông về ở ẩn tại Vũ Vu,
tìm học lời hay việc tốt của thánh hiền, viết sách “Vũ Vu thiền thuyết” và “Phong
vịnh tập”. Trong văn bia ở di tích, Tiến sĩ Vũ Huy Bình đánh giá về ông “Những
việc lớn có thể thấy như: lập đền thờ các bậc tiên hiền, mở ra các lễ yến ẩm để
nuôi dưỡng các bậc kỳ lão, đem điều nghĩa để cổ vũ văn hội, vạch rõ cương giới
ruộng đồng, lập chợ ở xã, khuyến khích khẩn hoang, giúp điều lợi, trừ điều hại…cái
chí của ông có thể thấy được đến mức hiên ngang của tài năng, nghị luận tài ba,
tấm lòng thể hiện sáng như ban ngày, nghĩa khí vượt trên mây xanh, khí tiết thường
ngày là luôn phục thiện, tầm mắt bao tràn bốn biển và không ngừng học hỏi…”
Năm 60 tuổi, ông có người
con là Ninh Tốn đỗ Tiến sĩ nên năm ông 66 tuổi được ấm phong Hàn lâm viện thị độc.
Thân mẫu Ninh Tốn theo bài
vị ở di tích ghi “…Lê huý Liệu, bàng nhất thần chủ” (thần chủ thờ bà họ Lê, tên
huý là Liệu). Bà được ấm tặng Nghi nhân.
Trong di tích còn thờ cụ Ninh
Tốn, em trai và con cháu Ninh Tốn.
2 . Nhân vật Ninh Tốn
a. Những nét chính và tiểu
sử Ninh Tốn
Ninh Tốn tự là Khiêm Như,
sau đổi là Hy Chí, tên hiệu là Mẫn Hiên, Chuyết Sơn cư sĩ, Song An cư sĩ. Ông
sinh năm 1713, chưa rõ năm mất.
Theo gia phả của dòng họ
Ninh thì cụ tổ tám đời là Doãn Trung, nguyên quán ở Ninh Xá, Vọng Doanh (nay
thuộc Nam Hà) đến khai hoang lập ấp ở
vùng đất có di tích, khoảng thời gian niên hiệu Hồng Đức (1470-1479).
Thời nhỏ ông là người
thông minh, được cha cho theo học ở kinh đô là đất ngàn năm văn vật. Năm 19 tuổi
(1762) đỗ Hương cống. Sau lại theo học Tiến sĩ Vũ Huy Bình, “bạn học chí thân của
Ninh Tốn lúc này có Phạm Nguyễn Du, Vũ Huy Tốn…Năm 27 tuổi đề thơ ở núi Vân Lỗi
khi Tĩnh Vương (Trịnh Sâm) đi xem phong tục, thấy bài thờ trên biết là của ông,
mến tài thơ ấy và triệu ông vào giữ chức “Phiên liêm tri bình miễn”.
Năm 1775, ông giữ chức Hiệu
thảo thự Sơn Nam
hiến sát sứ. Theo “viện sử thông giám cương mục” thì năm này ông cùng với Ngô
Thì Sỹ, Phạm Nguyễn Du, Nguyễn Sá biên soạn quốc sử.
Năm 1776, Ninh Tốn có tờ
khải về các tệ nạn ở vùng ven biển, ven sông làm cho dân khổ nên có lệnh của
triều đình nghiêm cấm việc giả danh thu thóc, thu thủy sản.
Năm thứ 39 niên hiệu Cảnh
Hưng (1778) ông thi đỗ Tiến sỹ, …chế hợp cách, được bổ thừa chính sử.
Theo sắc phong hiện lưu ở
di tích thì “…thơ văn Ninh Tốn, lúc còn trẻ có khả năng làm sáng nghĩa lý, giáo
dục người ta, do vậy được tiến triều, khoa thi năm Mậu Tuất (1778) đỗ Tiến sĩ.
Năm 1781, giữ chức Thiên
sai tri bình phiên, làm công việc cơ mật kiêm quốc sử, quốc luật toản tu Đông
các đại học sỹ, Hình bộ hữu thị lang, thời gian này ông có về thăm ngọn núi ở
quê hương, khắc vào đá bài “chuyết sơn thi tự”
(bài tựa thơ Chuyết sơn). Đây là dòng văn thơ hay, có tính triết lý sâu sắc về
cuộc sống, được nhiều người ca ngợi.
Năm 1786, ông làm Hiệp trấn,
đóng ở Quảng Bình. Đây là thời kỳ Ninh Tốn chán ghét cuộc đời làm quan trong xã
hội vua Lê chúa Trịnh. Ông đã nói “nay ở ngoài thành đều là bãi chiến trường,
thiên hạ theo loạn lớn, mà chính sự trong triều đình thì vẫn còn rối bời”.
Khi Tây Sơn hạ thành Phú Xuân thừa thắng tiến ra Quảng Bình, ông bỏ thành chạy
rồi trở về quê ẩn dật tại núi Chuyết. Sau đó ông lại bị triệu vào kinh giữ chức
Tham tri chính sự kiêm bồi tụng.
Năm 1787, ông lại phải giữ
chức Tham tán quân vụ dưới sự thống lĩnh của Nguyễn Như Thái hợp với quân Lê Duật
chống Tây Sơn ở Thanh Hóa. Duật bị giết, Thái bị bắn chết “Ninh Tốn chạy chốn
vào nhà dân, được thoát nạn”
Năm 1788, Bắc Bình vương
Nguyễn Huệ ra Bắc trị tội Võ Văn Nhậm, sắp đặt lại quan chức, Ninh Tốn đã có
cái nhìn thức thời và được Nguyễn Huệ phong cho chức Hàn lâm trực học sỹ và sau
ông làm quan với triều Tây Sơn đến Binh bộ thượng thư tước hầu”.
Đây là thời kỳ ông gặp được vua sáng, được trọng dụng nhưng tiếc rằng thời gian
này quá ngắn.
b. Vài nét về di sản văn
hóa của Ninh Tốn.
Có thể nói, Ninh Tốn đã để
lại nhiều di sản văn hóa quý báu, mặc dù những sáng tác của ông thời Tây Sơn đã
bị mất mát nhiều.
Ninh
Tốn là một nhà văn, nhà thơ, nhà viết sử, nhà biên soạn luật, nhà chính trị và
cả quân sự…”. Năm 1984, Viện Hán Nôm
thuộc Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam đã xuất bản tập “thơ văn Ninh Tốn”
dày 235 trang, chọn lọc những tác phẩm thơ văn đặc sắc của ông.
Nhìn chung, thơ văn của ông có tinh thần yêu nước, thương dân, ca ngợi cảnh
đẹp của quê hương, đất nước. Ở ông cũng khác phần lớn các nhà thơ nho đương thời
là những suy tư không bị giáo điều với những kinh điển của nhà nho đương thời sống
trong một thời đại với nhiều thăng trầm ông không khỏi day dứt với những quan
niệm “hành-tàng”, “xuất-xứ”, “họa-phúc”, “an-nguy”, “phú-hưng”, “thành-bại” của
các triều đại đã chọn cho mình một hướng đi. Chúng ta thấy ông có lúc đi ẩn
nhưng để chờ thời và không quay lưng lại với thực tế xã hội, vì vậy ông đã cộng
tác với phong trào Tây Sơn, cũng như một số nhà nho tiến bộ lúc bấy giờ: Phan
Huy Tán, Ngô Thì Nhậm…ông đánh giá thời kỳ Quang Trung “Hội vua sáng tôi hiền
trong thế giới thanh bình”.
Đánh giá về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của ông đã có nhận định “toàn bộ cuộc
đời, sự nghiệp sáng tác của Ninh Tốn xứng đáng để liệt ông vào hàng danh nhân”.
Ông không những là một nhà quân sự có tài mà còn là một nhà văn, nhà sử của nước
ta hồi thế kỷ 18.
Riêng trong khu vực tỉnh Ninh Bình, ông cũng đã để lại nhiều di sản văn
hóa quý giá, như các văn bia: ở nhà thờ đại tôn họ Ninh, ở núi Chuyết, ở bãi Vũ
Vu…
Sau khi ông mất, ngoài việc thờ cúng, tưởng niệm ông ở di tích, nơi mà
ông đã sinh ra và lớn lên, nhân dân địa phương còn suy tôn ông là Hậu thần được
thờ cúng ở đình làng. Thực là:
Đại học, đại vương, quân quý đức
Tiến triều, tiến sĩ, tử vinh thân
Tạm dịch:
Lúc còn sống được phong Đông các đại học sĩ, khi chết được phong bậc đại
vương, người quân tử quý ở đức.
Khi còn ít tuổi được tiến cử vào triều rồi đỗ Tiến sĩ, người con đã làm vinh
hiển bố mẹ.
Phần IV. Loại hình di tích.
Nhà thờ Ninh Tốn là nơi lưu niệm danh nhân, nơi thờ cúng tưởng niệm ông,
đây cũng là nơi mà ông sinh ra và lớn lên. Tại di tích hiện còn lưu giữ nhiều
di sản quý liên quan tới lúc ông còn sinh thời như sắc phong, văn bia…Vì vậy,
di tích nhà thờ Ninh Tốn thuộc loại hình di tích lịch sử.
Phần V. Khảo tả di tích.
Nhà thờ quay lưng hướng Đông Nam, phái trước là dòng sông và hồ nước, xa
xa có ngọn núi làm án, tiếp giáp với sân nhà thờ, có khu vườn trồng cây lưu niệm,
rộng khoảng hơn 300m2, tạo thành cảnh quan tương đối đẹp.
Kề cận với khu vườn là sân nhà thờ rộng khoảng 1002. Các hướng
Tây Nam,
Đông Bắc của nhà thờ tiếp giáp với nhà dân, phía Tây Bắc tiếp giáp với ruộng
lúa nước.
Tòa tiền bái: Hiên tiền bái có 4 cột lim đường kính 22cm, cao 2,3m, nâng đỡ phần bẩy và mái hiên.
Nền hiên rộng 2,3m, dài 6,7m. Phía trên mái tạo thành cổ đẳng “hai mái” Nhìn phần
hiên nhà thờ cho ta cảm giác tòa tiền bái được chia thành 3 gian, hai đầu gác đốc,
nhưng phía trong tiền bái được cuốn vòm. Như vậy, phần hiên tương đối rộng, các
má bẩy, mê kèo chạm khắc hoa văn lá lật và đường triện, mái lợp ngói Nam.
Tiền bái có ba cửa ra vào, phân bố tương đối đều nhau, lòng nhà dài
6,7m, rộng 2,6m, phần mái được uốn vòm bằng gạch, từ mặt nền lên đỉnh cao trần
nhà là 4m. Phía trên mái được lợp ngói Nam.
Hai đầu đốc của hiên tiền bái, mối phía đều dựng một tấm bia đá thời Hậu
Lê.
Chính giữa Tiền bái có ban thờ công đồng, về phía phải cso ban thờ bà tổ
cô và ông của Ninh Tốn, về phía trái có ban thờ con cháu của ông.
Khoảng năm 1951, 1952, tiền bái bị giặc Pháp làm hỏng nặng. Năm 1954,
con cháu trong dòng họ đã tu sửa lại. Hiện nay tòa tiền bái mang phong cách kiến trúc thời Nguyễn.
Nguyên vật liệu xây dựng tiền bái: gạch thất, gỗ lim, ngói Nam, vôi vữa.
Hậu cung: Tiếp giáp với phần chính giữa tiền bái được mở rộng ra phía
sau tạo thành Hậu cung: gồm 1 gian, rộng 2m, sau 1,5m, cao khoảng 3m. Phía trên
cuốn vòm bằng gạch thất, mái lợp ngói Nam, tường xây bằng gạch thất.
Hậu cung có ban thờ: Thân phụ, thân mẫu Ninh Tốn, Ninh Tốn và vợ ông.
Phần VI. Các hiện vật trong di tích
Một số hiện vật có giá trị cần chú ý như sau:
- Ở hiên tiền bái:
- 1 bia đá với đầu đề “Vũ Vu thiên thuyết”, rộng 1,8m, cao 1,66m, dày
0,19m, mặt trước trán bia chạm khắc lưỡng long chầu nguyệt, diềm bia chọn hoa
cúc dây. Mặt sau, trán bia chạm mặt nguyệt, vân mây, diềm bia chạm hoa cúc dây.
Chữ khắc hai mặt, còn rõ nét. Bia dựng năm thứ 44, niên hiệu Cảnh Hưng (1783)
- 1 bia đá (kích thước và
hoa văn chạm khắc như bia Vũ Vu “hiển
thuyết”, đầu đề “Dã Hiên tiên sinh mộ biểu”, nét chữ còn rõ. Bia dựng năm thứ
42, niên hiệu Cảnh Hưng (1781).
- Phía phải tiền bái có
hai cỗ long ngai, bài vị thời Nguyễn còn tốt.
- 1 bát hương sứ, đường
kính miệng 28cm, cao 13cm, men xanh, hoa văn đường triện và lan thần còn tốt.
- 1 quả chuông đồng, đường
kính đáy 14cm, cao 24cm, quai chuông đúc nổi hình hoa cúc dây, xung quanh thân
chuông đúc nổi hình hoa lá cách điệu, còn tốt.
- 2 cây nến đồng, đường
kính đáy 12cm, đường kính đĩa 16cm, cao 31cm, thân hình song tiện còn tốt.
2. Ở Hậu cung:
- Một cỗ khám thời Hậu Lê
còn tốt.
- 1 bát hương sứ, cao
15cm, đường kính miệng 25cm, men trắng xanh, hoa văn sơn thủy lâu đài, còn tốt.
Phần VII. Tình trạng bảo quản di tích
Nhìn
chung di tích nhà thờ Ninh Tốn còn tương đối tốt. Năm 1955, địa phương có tu sửa
nhỏ như xây lại bờ chảy của mái song vẫn còn đảm bảo được tính nguyên trạng của
di tích.
Hiện
nay, hệ thống cửa Tiền bái có một số cánh bị hỏng, cần được phục hồi lại.
Phần VIII. Những phương án bảo vệ, sử dụng
di tích
Hiện
nay địa phương đã thành lập ban bảo vệ di tích, thành phần chủ yếu là những cán
bộ đã về hưu thuộc dòng họ, ông Ninh Văn Yết hơn 60 tuổi làm trưởng ban.
Từ
trước tới nay, di tích nhà thờ Ninh Tốn đã từng đón nhiều đoàn khách tới thăm
quan, nghiên cứu về thân thế, sự nghiệp của Ninh Tốn, người đã để lại nhiều di
sản văn hóa quý giá.
Di
tích lại gần kề với đường số 59 nên rất thuận lợi cho khách kết hợp tham quan
vùng cửa biển Thần Phù thời xưa, tham quan nhà thờ Vũ Phạm Khải, là di tích đã
được nhà nước xếp hạng công nhận, hoặc kết hợp nghiên cứu tuyến đê thời Hồng Đức
đắp năm 1471.
Phần IX. Giá trị của di tích và đề nghị của
địa phương
Di tích nhà thờ Ninh Tốn từ
trước tới nay đã được nhiều sách báo ở Trung ương cũng như địa phương đề cập tới,
Viện sử học Việt Nam,
Viện Hán Nôm đã nhiều lần cử cán bộ về nghiên cứu tại di tích.
Xuất phát từ di tích sẽ
góp phần làm sáng tỏ hơn về thân thế cũng như sự nghiệp của Ninh Tốn, những
đóng góp của ông với dân, với nước trong xã hội đương thời. Tư tưởng cũng như
hành động của ông luôn hướng về phía nhân dân lao động, đã chuyển mình là một
Tiến sĩ triều Lê, song phục vụ cho triều đại Tây Sơn trong lúc không ít sĩ phu
lúc bấy giờ tư tưởng yếu thế, quay lưng lại với thời cuộc, tìm nơi ẩn dật an
nhàn. Ở ông cũng có đôi lần đi ẩn song không phải là để chán đời mà để chờ thời
để có dịp mang tài trí của mình giúp dân giúp nước, gặp vua sáng tôi hiền, ông
đã giữ tới chức thượng thư bộ binh triều Tây Sơn.
Điều đặc biệt, di tích vốn
là nơi sinh ra và lớn lên của ông. Tại di tích còn lưu giữ được nhiều di sản
quý như: Văn bia thời Hậu Lê do Tiến sĩ Vũ Huy Bình soạn, văn bia do Ninh Tốn
soạn, sắc phong chức lúc Ninh Tốn còn đang sống, long ngai bài vị thờ cúng.
Cuộc đời và sự nghiệp của
ông đã ảnh hưởng sâu rộng đến tận ngày nay đối với nhân dân trong vùng, là niềm
tự hào, là tấm gương sáng cho nhiều người học tập.
Di tích là công trình kiến
trúc mang nghệ thuật kiến trúc truyền thống dân tộc, luôn được các thế hệ của
dòng họ cũng như nhân dân địa phương trân trọng gìn giữ.
Xuất phát từ những giá trị
nghệ thuật của di tích, thể theo nguyện vọng của dòng họ Ninh cũng như nhân dân
địa phương và các cấp chính quyền cơ sở, Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Ninh Bình tiến
hành lập hồ sơ khoa học và trân trọng đề nghị Bộ Văn hóa Thông tin xét duyệt để
công nhận nhà thờ Ninh Tốn là di tích cấp nhà nước, nhằm có cơ sở pháp lý cho
việc bảo vệ cũng như phát huy tác dụng của di tích được tốt hơn.
Ninh Bình, ngày 21 tháng 3 năm 1995
Sở Văn hóa Thông tin
Ninh Bình
(Đã ký)
Giám đốc
Nguyễn Đăng Thanh
|
Bảo tàng tỉnh Ninh
Bình
(Đã ký)
Giám đốc
Đặng Công Nga
|
Cán bộ viết lý lịch
Bùi Xuân Quang
|