image banner
Nhà thờ Ninh Tốn

Di tích từ trước tới nay có tên thường gọi là “nhà thờ Ninh Tốn”, vì di tích vốn là nơi ông đã sinh ra và lớn lên, từ khi Ninh Tốn mất đi, nơi đây đã trở thành nơi thờ cúng, tưởng niệm ông.

          Theo bức đại tự ở hiên gian giữa Tiền bái di tích: nhấn vữa có ghi: “Từ đường Ninh thị” (từ đường họ Ninh). Thực ra đây là nơi thờ cúng một số nhân vật khác thuộc chi thứ hai họ Ninh, như thân phụ, thân mẫu Ninh Tốn, cách gọi “từ đường họ Ninh” hoặc “từ đường chi thứ hai họ Ninh” rất ít gặp[1]. Vậy từ đường họ Ninh ở đây chỉ có ý nghĩa là nơi thờ cúng, tưởng niệm những người cũng thuộc họ Ninh chứ không phải đồng nghĩa với “nhà thờ đại tôn”, do đó có di tích có tên thường gọi là “nhà thờ Ninh Tốn”, đồng nghĩa với “nhà thờ đại tôn”, do đó mà di tích có tên thường gọi là “nhà thờ Ninh Tốn”.           Tên gọi khác là nhà thờ chi thứ hai họ Ninh. [1] Trong chú thích ảnh, trang 39, 40 sách “thơ văn Ninh Tốn”, Nxb Khoa học và Xã hội, Hà Nội 1981, ghi “ nhà thờ họ Ninh”, theo chúng tôi là chưa đúng, vì họ Ninh ở địa phương có nhà thờ đại tộc và đó mới là nhà thờ họ Ninh, gọi di tích là “nhà thờ Ninh Tốn” mới đúng, phù hợp với cách gọi của dòng họ Ninh cũng như nhân dân trong vùng.

anh tin bai

 

Phần I. Tên gọi

Di tích từ trước tới nay có tên thường gọi là “nhà thờ Ninh Tốn”, vì di tích vốn là nơi ông đã sinh ra và lớn lên, từ khi Ninh Tốn mất đi, nơi đây đã trở thành nơi thờ cúng, tưởng niệm ông.

          Theo bức đại tự ở hiên gian giữa Tiền bái di tích: nhấn vữa có ghi: “Từ đường Ninh thị” (từ đường họ Ninh). Thực ra đây là nơi thờ cúng một số nhân vật khác thuộc chi thứ hai họ Ninh, như thân phụ, thân mẫu Ninh Tốn, cách gọi “từ đường họ Ninh” hoặc “từ đường chi thứ hai họ Ninh” rất ít gặp[1]. Vậy từ đường họ Ninh ở đây chỉ có ý nghĩa là nơi thờ cúng, tưởng niệm những người cũng thuộc họ Ninh chứ không phải đồng nghĩa với “nhà thờ đại tôn”, do đó có di tích có tên thường gọi là “nhà thờ Ninh Tốn”, đồng nghĩa với “nhà thờ đại tôn”, do đó mà di tích có tên thường gọi là “nhà thờ Ninh Tốn”.

          Tên gọi khác là nhà thờ chi thứ hai họ Ninh.

          Phần II. Địa điểm phân bố di tích, đường đi đến di tích.

          1. Địa điểm phân bố di tích.

          Nhà thờ Ninh Tốn hiện nay ở khoảng gần giữa thôn Côi Trì, xã Yên Mỹ, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình. Nhà thờ được xây dựng trên nền nhà mà Ninh Tốn đã sinh ra và lớn lên.

          Di tích nằm trên khu đất rộng hơn 600m2, thuộc dạng đất đồi, phia trước hướng Đông Nam là hồ nước nhỏ, rồi đến sông và đường đi, phía sau di tích hướng Tây Bắc tiếp giáp với ruộng lúa nước, các hướng Tây Nam, Đông Bắc tiếp giáp với nhà dân.

          Vùng đất có di tích được hình thành vào thời Trần, lúc đó thuộc khu vực xứ Mô Độ. Năm 1407, Trần Ngỗi lên ngôi hoàng đế, lấy căn cứ cạnh bến Mô Độ làm nơi tế cờ xuất quân đánh giặc[2] .

          Khi quân Minh dẹp được cuộc khởi nghĩa của Trần Quý Khoáng (1413), chúng đổi tên huyện Mô Độ thành huyện Yên Mô.

          Theo văn bia ở chợ Bút dựng năm thứ 22 niên hiệu Cảnh Hưng (1761), di tích thuộc xã Côi Trì, huyện Yên Mô, phủ Trường Yên.

          Theo “tên làng xã Việt Nam đầu thế kỳ 19”[3] di tích thuộc xã Côi Trì, huyện Yên Mô, đạo Thanh Bình.

Năm thứ 2 đời vua Minh Mệnh (1822) đổi đạo Thanh Bình thành đạo Ninh Bình và tên Ninh Bình có từ đây. Năm 1829, đổi đạo Ninh Bình thành trấn Ninh Bình. Năm thứ 12 đời vua Minh Mệnh (1831) đổi trấn Ninh Bình thành tỉnh Ninh Bình. Di tích thuộc xã Côi Trì, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình.

Sau cách mạng tháng 8 năm 1945, Côi Trì thuộc xã Yên Mạc, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình.

Cuối năm 1955, tách thôn Côi Trì để thành lập xã Yên Mỹ, thuộc huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình.

Cuối năm 1955, tách thôn Côi Trì để thành lập xã Yên Mỹ, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình.

Năm 1976, tỉnh Ninh Bình và Nam Hà hợp nhất thành tỉnh Hà Nam Ninh, di tích thuộc xã Yên Mỹ, huyện Yên Mô, tỉnh Hà Nam Ninh.

Năm 1977, cắt 10 xã của huyện Yên Khánh sáp nhập vào huyện Yên Mô và đổi tên thành huyện Tam Điệp, xã Yên Mỹ thuộc huyện Tam Điệp, tỉnh Hà Nam Ninh (Yên Mỹ nhập thôn Hưng Hiền của xã Yên Phú).

Năm 1992, tách Hà Nam Ninh thành hai tỉnh như cũ là Nam Hà và Ninh Bình.

Năm 1994, tái lập huyện Yên Khánh theo như cũ, và huyện Yên Mô, di tích thuộc xã Yên Mỹ, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình.

2. Đường đi đến di tích

Từ thị xã Ninh Bình, quý khách có thể đi theo các đường bộ sau đây:

Theo đường quốc lộ số 1A (về mạn Thanh Hoá), đi hơn 9 Km đến ngã ba Bình Sơn, rẽ trái theo đường 59 đi tiếp 15 km tới cầu Bút, rẽ phải khoảng 600m thì tới di tích, đây là con đường tiện lợi nhất.

Theo đường 10 (mạn đi Kim Sơn) đi 8 km, rẽ phải khoảng hơn 5km tới huyện lỵ Yên Mô, rẽ trái đi tiếp khoảng 11km tới cầu Bút, rẽ phải vào di tích.

Theo đường 10 (mạn đi Kim Sơn), khoảng 12 km tới huyện lỵ Yên Khánh, rẽ phải (đường đi chợ Lồng) khoảng 13 km tới cầu Bút, rẽ phải khoảng 600m thì tới di tích.

Tất cả các con đường bộ trên, quý khách đều có thể đi bằng ô tô, xe đạp, xe máy.

Phần III. Sự kiện, nhân vật lịch sử và thuộc tính của di tích.

Nhà thờ Ninh Tốn ngoài việc thờ cúng tưởng niệm ông, còn là nơi tưởng niệm thờ cúng một số nhân vật thuộc chi thứ 2 của họ Ninh. Trước khi vào phần chính là nhân vật Ninh Tốn, chúng tôi xin nêu những nét khái quát và các nhân vật khác hiện đang thờ cúng ở di tích.

1. Một số nhân vật khác đang thờ cúng ở nhà thờ Ninh Tốn

- Ninh Ngạn, thân sinh ra Ninh Tốn, tên hiệu là Dã Hiên, Hy Tăng cư sĩ. Ông sinh năm Ất Mùi, niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 11 (1716) và mất năm Tân Sửu (1781), thọ 67 tuổi[4]. Bài vị thờ cúng ông ghi “có ấn phong Hàn lâm viện thị độc”. Hậu thần, Ninh tướng công, huý Tiến, tự Ngạn, hiệu Hy Tăng tiên sinh”, được ấn phong Hàn lâm viện thị độc và là Hậu thần của làng.

Ngay sau khi ông mất, Tiến sĩ Vũ Huy Bình đã viết bài văn bia[5] nêu những nét chính về cuộc đời, sự nghiệp cũng như ca ngợi đức hạnh ông. Năm 24 tuổi vào trường quốc học (1735). Năm 36 tuổi đỗ cử nhân (1750). Năm sau ông đi thi hội nhưng không đỗ. Năm 45 tuổi, ông giữ chức Hiến phó tán chức. Bốn lần thi hội, không toại nguyện, ông về ở ẩn tại Vũ Vu[6], tìm học lời hay việc tốt của thánh hiền, viết sách “Vũ Vu thiền thuyết” và “Phong vịnh tập”. Trong văn bia ở di tích, Tiến sĩ Vũ Huy Bình đánh giá về ông “Những việc lớn có thể thấy như: lập đền thờ các bậc tiên hiền, mở ra các lễ yến ẩm để nuôi dưỡng các bậc kỳ lão, đem điều nghĩa để cổ vũ văn hội, vạch rõ cương giới ruộng đồng, lập chợ ở xã, khuyến khích khẩn hoang, giúp điều lợi, trừ điều hại…cái chí của ông có thể thấy được đến mức hiên ngang của tài năng, nghị luận tài ba, tấm lòng thể hiện sáng như ban ngày, nghĩa khí vượt trên mây xanh, khí tiết thường ngày là luôn phục thiện, tầm mắt bao tràn bốn biển và không ngừng học hỏi…”

Năm 60 tuổi, ông có người con là Ninh Tốn đỗ Tiến sĩ nên năm ông 66 tuổi được ấm phong Hàn lâm viện thị độc[7].

Thân mẫu Ninh Tốn theo bài vị ở di tích ghi “…Lê huý Liệu, bàng nhất thần chủ” (thần chủ thờ bà họ Lê, tên huý là Liệu). Bà được ấm tặng Nghi nhân[8].

Trong di tích còn thờ cụ Ninh Tốn, em trai và con cháu Ninh Tốn.

2 . Nhân vật Ninh Tốn

a. Những nét chính và tiểu sử Ninh Tốn

Ninh Tốn tự là Khiêm Như, sau đổi là Hy Chí, tên hiệu là Mẫn Hiên, Chuyết Sơn cư sĩ, Song An cư sĩ. Ông sinh năm 1713, chưa rõ năm mất.

Theo gia phả của dòng họ Ninh thì cụ tổ tám đời là Doãn Trung, nguyên quán ở Ninh Xá, Vọng Doanh (nay thuộc Nam Hà[9]) đến khai hoang lập ấp ở vùng đất có di tích, khoảng thời gian niên hiệu Hồng Đức (1470-1479).

Thời nhỏ ông là người thông minh, được cha cho theo học ở kinh đô là đất ngàn năm văn vật. Năm 19 tuổi (1762) đỗ Hương cống. Sau lại theo học Tiến sĩ Vũ Huy Bình, “bạn học chí thân của Ninh Tốn lúc này có Phạm Nguyễn Du, Vũ Huy Tốn…Năm 27 tuổi đề thơ ở núi Vân Lỗi[10] khi Tĩnh Vương (Trịnh Sâm) đi xem phong tục, thấy bài thờ trên biết là của ông, mến tài thơ ấy và triệu ông vào giữ chức “Phiên liêm tri bình miễn”[11].

Năm 1775, ông giữ chức Hiệu thảo thự Sơn Nam hiến sát sứ. Theo “viện sử thông giám cương mục” thì năm này ông cùng với Ngô Thì Sỹ, Phạm Nguyễn Du, Nguyễn Sá biên soạn quốc sử.

Năm 1776, Ninh Tốn có tờ khải về các tệ nạn ở vùng ven biển, ven sông làm cho dân khổ nên có lệnh của triều đình nghiêm cấm việc giả danh thu thóc, thu thủy sản.

Năm thứ 39 niên hiệu Cảnh Hưng (1778) ông thi đỗ Tiến sỹ, …chế hợp cách, được bổ thừa chính sử.[12]

Theo sắc phong hiện lưu ở di tích thì “…thơ văn Ninh Tốn, lúc còn trẻ có khả năng làm sáng nghĩa lý, giáo dục người ta, do vậy được tiến triều, khoa thi năm Mậu Tuất (1778) đỗ Tiến sĩ.

Năm 1781, giữ chức Thiên sai tri bình phiên, làm công việc cơ mật kiêm quốc sử, quốc luật toản tu Đông các đại học sỹ, Hình bộ hữu thị lang, thời gian này ông có về thăm ngọn núi ở quê hương, khắc vào đá bài “chuyết sơn thi tự”[13] (bài tựa thơ Chuyết sơn). Đây là dòng văn thơ hay, có tính triết lý sâu sắc về cuộc sống, được nhiều người ca ngợi.

Năm 1786, ông làm Hiệp trấn, đóng ở Quảng Bình. Đây là thời kỳ Ninh Tốn chán ghét cuộc đời làm quan trong xã hội vua Lê chúa Trịnh. Ông đã nói “nay ở ngoài thành đều là bãi chiến trường, thiên hạ theo loạn lớn, mà chính sự trong triều đình thì vẫn còn rối bời”[14]. Khi Tây Sơn hạ thành Phú Xuân thừa thắng tiến ra Quảng Bình, ông bỏ thành chạy rồi trở về quê ẩn dật tại núi Chuyết. Sau đó ông lại bị triệu vào kinh giữ chức Tham tri chính sự kiêm bồi tụng.

Năm 1787, ông lại phải giữ chức Tham tán quân vụ dưới sự thống lĩnh của Nguyễn Như Thái hợp với quân Lê Duật chống Tây Sơn ở Thanh Hóa. Duật bị giết, Thái bị bắn chết “Ninh Tốn chạy chốn vào nhà dân, được thoát nạn”[15]

Năm 1788, Bắc Bình vương Nguyễn Huệ ra Bắc trị tội Võ Văn Nhậm, sắp đặt lại quan chức, Ninh Tốn đã có cái nhìn thức thời và được Nguyễn Huệ phong cho chức Hàn lâm trực học sỹ và sau ông làm quan với triều Tây Sơn đến Binh bộ thượng thư tước hầu”[16]. Đây là thời kỳ ông gặp được vua sáng, được trọng dụng nhưng tiếc rằng thời gian này quá ngắn.

b. Vài nét về di sản văn hóa của Ninh Tốn.

Có thể nói, Ninh Tốn đã để lại nhiều di sản văn hóa quý báu, mặc dù những sáng tác của ông thời Tây Sơn đã bị mất mát nhiều.

Ninh Tốn là một nhà văn, nhà thơ, nhà viết sử, nhà biên soạn luật, nhà chính trị và cả quân sự…”[17]. Năm 1984, Viện Hán Nôm thuộc Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam đã xuất bản tập “thơ văn Ninh Tốn” dày 235 trang, chọn lọc những tác phẩm thơ văn đặc sắc của ông.

Nhìn chung, thơ văn của ông có tinh thần yêu nước, thương dân, ca ngợi cảnh đẹp của quê hương, đất nước. Ở ông cũng khác phần lớn các nhà thơ nho đương thời là những suy tư không bị giáo điều với những kinh điển của nhà nho đương thời sống trong một thời đại với nhiều thăng trầm ông không khỏi day dứt với những quan niệm “hành-tàng”, “xuất-xứ”, “họa-phúc”, “an-nguy”, “phú-hưng”, “thành-bại” của các triều đại đã chọn cho mình một hướng đi. Chúng ta thấy ông có lúc đi ẩn nhưng để chờ thời và không quay lưng lại với thực tế xã hội, vì vậy ông đã cộng tác với phong trào Tây Sơn, cũng như một số nhà nho tiến bộ lúc bấy giờ: Phan Huy Tán, Ngô Thì Nhậm…ông đánh giá thời kỳ Quang Trung “Hội vua sáng tôi hiền trong thế giới thanh bình”[18]. Đánh giá về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của ông đã có nhận định “toàn bộ cuộc đời, sự nghiệp sáng tác của Ninh Tốn xứng đáng để liệt ông vào hàng danh nhân”. Ông không những là một nhà quân sự có tài mà còn là một nhà văn, nhà sử của nước ta hồi thế kỷ 18[19].

Riêng trong khu vực tỉnh Ninh Bình, ông cũng đã để lại nhiều di sản văn hóa quý giá, như các văn bia: ở nhà thờ đại tôn họ Ninh, ở núi Chuyết, ở bãi Vũ Vu…

Sau khi ông mất, ngoài việc thờ cúng, tưởng niệm ông ở di tích, nơi mà ông đã sinh ra và lớn lên, nhân dân địa phương còn suy tôn ông là Hậu thần được thờ cúng ở đình làng. Thực là:

Đại học, đại vương, quân quý đức

Tiến triều, tiến sĩ, tử vinh thân[20]

Tạm dịch:

Lúc còn sống được phong Đông các đại học sĩ, khi chết được phong bậc đại vương, người quân tử quý ở đức.

Khi còn ít tuổi được tiến cử vào triều rồi đỗ Tiến sĩ, người con đã làm vinh hiển bố mẹ.

Phần IV. Loại hình di tích.

Nhà thờ Ninh Tốn là nơi lưu niệm danh nhân, nơi thờ cúng tưởng niệm ông, đây cũng là nơi mà ông sinh ra và lớn lên. Tại di tích hiện còn lưu giữ nhiều di sản quý liên quan tới lúc ông còn sinh thời như sắc phong, văn bia…Vì vậy, di tích nhà thờ Ninh Tốn thuộc loại hình di tích lịch sử.

Phần V. Khảo tả di tích.

Nhà thờ quay lưng hướng Đông Nam, phái trước là dòng sông và hồ nước, xa xa có ngọn núi làm án, tiếp giáp với sân nhà thờ, có khu vườn trồng cây lưu niệm, rộng khoảng hơn 300m2, tạo thành cảnh quan tương đối đẹp.

Kề cận với khu vườn là sân nhà thờ rộng khoảng 1002. Các hướng Tây Nam, Đông Bắc của nhà thờ tiếp giáp với nhà dân, phía Tây Bắc tiếp giáp với ruộng lúa nước.

Tòa tiền bái: Hiên tiền bái có 4 cột lim đường kính  22cm, cao 2,3m, nâng đỡ phần bẩy và mái hiên. Nền hiên rộng 2,3m, dài 6,7m. Phía trên mái tạo thành cổ đẳng “hai mái” Nhìn phần hiên nhà thờ cho ta cảm giác tòa tiền bái được chia thành 3 gian, hai đầu gác đốc, nhưng phía trong tiền bái được cuốn vòm. Như vậy, phần hiên tương đối rộng, các má bẩy, mê kèo chạm khắc hoa văn lá lật và đường triện, mái lợp ngói Nam.

Tiền bái có ba cửa ra vào, phân bố tương đối đều nhau, lòng nhà dài 6,7m, rộng 2,6m, phần mái được uốn vòm bằng gạch, từ mặt nền lên đỉnh cao trần nhà là 4m. Phía trên mái được lợp ngói Nam.

Hai đầu đốc của hiên tiền bái, mối phía đều dựng một tấm bia đá thời Hậu Lê.

Chính giữa Tiền bái có ban thờ công đồng, về phía phải cso ban thờ bà tổ cô và ông của Ninh Tốn, về phía trái có ban thờ con cháu của ông.

Khoảng năm 1951, 1952, tiền bái bị giặc Pháp làm hỏng nặng. Năm 1954, con cháu trong dòng họ đã tu sửa lại. Hiện nay tòa tiền bái mang  phong cách kiến trúc thời Nguyễn.

Nguyên vật liệu xây dựng tiền bái: gạch thất, gỗ lim, ngói Nam, vôi vữa.

Hậu cung: Tiếp giáp với phần chính giữa tiền bái được mở rộng ra phía sau tạo thành Hậu cung: gồm 1 gian, rộng 2m, sau 1,5m, cao khoảng 3m. Phía trên cuốn vòm bằng gạch thất, mái lợp ngói Nam, tường xây bằng gạch thất.

Hậu cung có ban thờ: Thân phụ, thân mẫu Ninh Tốn, Ninh Tốn và vợ ông.

Phần VI. Các hiện vật trong di tích

Một số hiện vật có giá trị cần chú ý như sau:

  1. Ở hiên tiền bái:

- 1 bia đá với đầu đề “Vũ Vu thiên thuyết”, rộng 1,8m, cao 1,66m, dày 0,19m, mặt trước trán bia chạm khắc lưỡng long chầu nguyệt, diềm bia chọn hoa cúc dây. Mặt sau, trán bia chạm mặt nguyệt, vân mây, diềm bia chạm hoa cúc dây. Chữ khắc hai mặt, còn rõ nét. Bia dựng năm thứ 44, niên hiệu Cảnh Hưng (1783)[21]

- 1 bia đá (kích thước và hoa văn  chạm khắc như bia Vũ Vu “hiển thuyết”, đầu đề “Dã Hiên tiên sinh mộ biểu”, nét chữ còn rõ. Bia dựng năm thứ 42, niên hiệu Cảnh Hưng (1781)[22].

- Phía phải tiền bái có hai cỗ long ngai, bài vị thời Nguyễn còn tốt.

- 1 bát hương sứ, đường kính miệng 28cm, cao 13cm, men xanh, hoa văn đường triện và lan thần còn tốt.

- 1 quả chuông đồng, đường kính đáy 14cm, cao 24cm, quai chuông đúc nổi hình hoa cúc dây, xung quanh thân chuông đúc nổi hình hoa lá cách điệu, còn tốt.

- 2 cây nến đồng, đường kính đáy 12cm, đường kính đĩa 16cm, cao 31cm, thân hình song tiện còn tốt.

2. Ở Hậu cung:

- Một cỗ khám thời Hậu Lê còn tốt.

- 1 bát hương sứ, cao 15cm, đường kính miệng 25cm, men trắng xanh, hoa văn sơn thủy lâu đài, còn tốt.

Phần VII. Tình trạng bảo quản di tích

Nhìn chung di tích nhà thờ Ninh Tốn còn tương đối tốt. Năm 1955, địa phương có tu sửa nhỏ như xây lại bờ chảy của mái song vẫn còn đảm bảo được tính nguyên trạng của di tích.

Hiện nay, hệ thống cửa Tiền bái có một số cánh bị hỏng, cần được phục hồi lại.

Phần VIII. Những phương án bảo vệ, sử dụng di tích

Hiện nay địa phương đã thành lập ban bảo vệ di tích, thành phần chủ yếu là những cán bộ đã về hưu thuộc dòng họ, ông Ninh Văn Yết hơn 60 tuổi làm trưởng ban.

Từ trước tới nay, di tích nhà thờ Ninh Tốn đã từng đón nhiều đoàn khách tới thăm quan, nghiên cứu về thân thế, sự nghiệp của Ninh Tốn, người đã để lại nhiều di sản văn hóa quý giá.

Di tích lại gần kề với đường số 59 nên rất thuận lợi cho khách kết hợp tham quan vùng cửa biển Thần Phù thời xưa, tham quan nhà thờ Vũ Phạm Khải, là di tích đã được nhà nước xếp hạng công nhận, hoặc kết hợp nghiên cứu tuyến đê thời Hồng Đức đắp năm 1471.

Phần IX. Giá trị của di tích và đề nghị của địa phương

Di tích nhà thờ Ninh Tốn từ trước tới nay đã được nhiều sách báo ở Trung ương cũng như địa phương đề cập tới, Viện sử học Việt Nam, Viện Hán Nôm đã nhiều lần cử cán bộ về nghiên cứu tại di tích.

Xuất phát từ di tích sẽ góp phần làm sáng tỏ hơn về thân thế cũng như sự nghiệp của Ninh Tốn, những đóng góp của ông với dân, với nước trong xã hội đương thời. Tư tưởng cũng như hành động của ông luôn hướng về phía nhân dân lao động, đã chuyển mình là một Tiến sĩ triều Lê, song phục vụ cho triều đại Tây Sơn trong lúc không ít sĩ phu lúc bấy giờ tư tưởng yếu thế, quay lưng lại với thời cuộc, tìm nơi ẩn dật an nhàn. Ở ông cũng có đôi lần đi ẩn song không phải là để chán đời mà để chờ thời để có dịp mang tài trí của mình giúp dân giúp nước, gặp vua sáng tôi hiền, ông đã giữ tới chức thượng thư bộ binh triều Tây Sơn.

Điều đặc biệt, di tích vốn là nơi sinh ra và lớn lên của ông. Tại di tích còn lưu giữ được nhiều di sản quý như: Văn bia thời Hậu Lê do Tiến sĩ Vũ Huy Bình soạn, văn bia do Ninh Tốn soạn, sắc phong chức lúc Ninh Tốn còn đang sống, long ngai bài vị thờ cúng.

Cuộc đời và sự nghiệp của ông đã ảnh hưởng sâu rộng đến tận ngày nay đối với nhân dân trong vùng, là niềm tự hào, là tấm gương sáng cho nhiều người học tập.

Di tích là công trình kiến trúc mang nghệ thuật kiến trúc truyền thống dân tộc, luôn được các thế hệ của dòng họ cũng như nhân dân địa phương trân trọng gìn giữ.

Xuất phát từ những giá trị nghệ thuật của di tích, thể theo nguyện vọng của dòng họ Ninh cũng như nhân dân địa phương và các cấp chính quyền cơ sở, Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Ninh Bình tiến hành lập hồ sơ khoa học và trân trọng đề nghị Bộ Văn hóa Thông tin xét duyệt để công nhận nhà thờ Ninh Tốn là di tích cấp nhà nước, nhằm có cơ sở pháp lý cho việc bảo vệ cũng như phát huy tác dụng của di tích được tốt hơn.

                                             Ninh Bình, ngày 21 tháng 3 năm 1995

Sở Văn hóa Thông tin Ninh Bình

(Đã ký)

 

Giám đốc

Nguyễn Đăng Thanh

Bảo tàng tỉnh Ninh Bình

 

(Đã ký)

 

 

Giám đốc

Đặng Công Nga

Cán bộ viết lý lịch

 

 

 

 

 

Bùi Xuân Quang

 



[1] Trong chú thích ảnh, trang 39, 40 sách “thơ văn Ninh Tốn”, Nxb Khoa học và Xã hội, Hà Nội 1981, ghi “ nhà thờ họ Ninh”, theo chúng tôi là chưa đúng, vì họ Ninh ở địa phương có nhà thờ đại tộc và đó mới là nhà thờ họ Ninh, gọi di tích là “nhà thờ Ninh Tốn” mới đúng, phù hợp với cách gọi của dòng họ Ninh cũng như nhân dân trong vùng.

[2] Dẫn theo “lịch sử Hà Nam Ninh”, tập I, phòng nghiên cứu lịch sử Hà Nam Ninh, xuất bản năm 1988, trang 128.

[3] Nxb Khoa học và Xã hội, Hà Nội 1981, trang 118, 119.

[4] Theo văn bia tại di tích.

[5] Văn bia soạn năm thứ 42, niên hiệu Cảnh Hưng (1781), hiện ở di tích. Xin xem thêm phần tư liệu Hán Nôm.

[6] Nay thuộc khu vực đồi Vải, thị xã Tam Điệp

[7] Xin xem phần sắc phong ở tư liệu Hán nôm.

[8] Xin xem phần sắc phong ở tư liệu Hán nôm.

[9] Theo cuốn “thơ văn Ninh Tốn”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1984, tr? Ghi gốc quê ông cũng ở Ninh Xá, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương.

[10] Nay thuộc địa phận Nga Sơn, Thanh Hóa.

[11] “Thơ văn Ninh Tốn”, sđd tr 8

[12] Dẫn theo “lược chuyện các tác giả Việt Nam”, nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1971 và theo văn bia ghi những người đỗ Tiến sĩ ỏ Văn Miếu, Hà Nội.

[13] Bài thơ này ở vách núi Voi, thuộc xã Yên Mạc, huyện Yên Mô, nét chữ còn rất rõ.

[14] “Hoàng Lê nhất thống chí”, nhà xuất bản văn học Hà Nội 1970, tr 176.

[15] “Hoàng Lê nhất thống chí”, nhà xuất bản văn học Hà Nội 1970, tr 268.

 

[16] “Lược truyện các tác giả…”, sđd, tr 328.

[17] Thơ văn Ninh Tốn, sđd tr 19.

[18] Thơ văn Ninh Tốn, sđd tr 28.

[19] Dẫn theo “tạp chí văn học” xuất bản tháng 6 năm 1981, tr 10.

[20] Câu đối bằng gỗ, sơn son thếp vàng ở di tích.

[21] Do Tiến sĩ Ninh Tốn soạn văn bia.

[22] Do Tiến sĩ Vũ Huy Bình soạn văn bia.

  • Từ khóa :
Tin mới
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
Thống kê truy cập
  • Đang online: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tất cả: 1
Đăng nhập

Bản quyền thuộc UBND Xã Yên Mỹ

Chịu trách nhiệm:

Địa chỉ: Huyện Yên Mô, Ninh Bình

Điện thoại: